HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Sunday 14 July 2013

NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO VIỆT NAM III


Chùa Thiền Lâm do hoà thượng Thích Trí Lượng khởi xây với hình thức ban đầu tre lá đơn sơ từ cuối thế kỷ XIX. Thiền Lâm là một trong những ngôi chùa cổ ra đời sớm nhất ở Tây Ninh.


Vào năm 1925, hoà thượng Thích Từ Phong (tên huý là Như Nhãn), đệ tử của hoà thượng Thích Trí Lượng cùng các tín đồ Phật giáo đã xây dựng ngôi chùa lại kiên cố trên một khuôn viên rộng 20.000m2 (ngày nay diện tích này đã bị thu hẹp lại).

 
 
Chùa tọa lạc tại số 5/11 ấp Long Trung, xã Long Thành Trung, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. ĐT: 066.846801. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.



Chùa do Hòa thượng Thích Từ Phong sáng lập, được khánh thành vào năm 1925. Chùa nằm trên một gò đất mang tên gò Kén, cạnh quốc lộ 22, cách thị xã Tây Ninh 5km, nên thường được gọi là chùa Gò Kén. Kiến trúc chùa do kiến trúc sư Học Đình vẽ kiểu. Chiều dài ngôi chùa khoảng 30m, chiều rộng khoảng 15m, hai mái lợp ngói móc.




Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chùa thờ nhiều tượng Phật, Bồ tát, La hán, Minh Vương... Chùa còn giữ nhiều pho tượng cổ bằng gỗ. Trước chánh điện có đài Quan Âm.
Chùa được trùng tu năm 1970.

111. CHÙA PHƯỚC LƯU -Tây Ninh


Chùa Phước Lưu nằm cạnh Quốc lộ 22A, đối diện với bệnh viện và sân vận động Trảng Bàng. Chùa tọa lạc ở 259 quốc lộ 22, thị trấn Trảng Bàng, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. ĐT: 066.880093. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.Chùa trước đây là am Bà Đồng, đến năm 1900, hình thành chùa Bà Đồng. Tổ Trừng Lực thuộc chi phái Thiền Liễu Quán đã tổ chức xây lại ngôi chùa và đặt tên Phước Lưu.


Chùa Phước Lưu được xây dựng vào giữa thế kỷ 19. Ban đầu chỉ là một cái am nhỏ, gọi là am Bà Đồng, sau này được xây dựng thành chùa nên cò tên gọi là chùa Bà Đồng.
Năm 1900, Tổ Trừng Lực thuộc đời thứ 42, phái Liễu quán đã quyên góp tài chính của phật tử địa phương và cộng đồng người Hoa ở Trảng Bàng sửa chữa và mở rộng chùa, đặt tên là chùa Phước Lưu.

Phước Lưu: Chùa - Pagode - Pagoda

Từ lúc xây dựng đến nay đã qua bốn lần trùng tu, sửa chữa vào các năm 1943, 1946, 1975 và 1990. Đây là một ngôi chùa được xây dựng bề thế, khang trang. Hệ thống tượng phật và các đồ thờ tự có giá trí cao so với các chùa phật ở Tây Ninh. Ngoài tượng phật Di Lặc, có tượng Di Đà Tam Tôn bằng gốm thếp vàng được mang từ Trung Quốc sang (gốm sứ đời Thanh). Với 15 tượng Phật được làm bằng chất liệu đất nung thành gốm sứ đời Thanh (chế tác từ Trung Quốc).

Chùa Phước Lưu là nơi có nhiều tượng phật cùng nhiều hiện vật cổ được tạo tác có giá trị nghệ thuật cao như: 4 bàn tủ khảm trai, bộ tràng kỷ mặt đá. Đặc biệt có 2 đĩa lớn (đường kính 55cm), 2 chóe lam lớn. Với những họa tiết, hoa văn đường phủ men lam là những hiện vật cổ có giá trị độc đáo.
Với lối kiến trúc đẹp, hòa với tổng thể thiên nhiên. Một ngôi chùa đã được giới thiệu trong “Việt Nam danh lam cổ tự”.

Chùa đã được trùng tu nhiều lần vào các năm 1945, 1946, 1968, 1975, 1990. Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ, như bộ tượng Di Đà Tam Tôn bằng gốm, thếp vàng; bộ tượng Thập bát La hán; bộ tượng Thập Điện Minh Vương và các bao lam với nét chạm khắc tinh xảo.



112. CÁC CHÙA TRÊN NÚI BÀ ĐEN - Tây Ninh

-CHÙA LINH SƠN  (Điện Bà)


Chùa thường được gọi là chùa Bà, tọa lạc trên núi Bà Đen, thuộc ấp Ninh Trung, xã Ninh Sơn, thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Núi Bà Đen ở Tây Ninh, cách Saigon 110 km. Từ xa nhìn núi Bà Đen như một chiếc nón lá úp trên đồng bằng. Đây là ngọn núi cao nhất ở Miền Nam.
Núi Bà Đen còn gọi là núi Điện Bà, còn có tên là Vân Sơn, vì thường có mây phủ. Và còn có tên là núi Một. Núi Bà Đen Tây Ninh là một quần thể miếu chùa, tổng hợp đạo Phật và Tiên Thánbh, trong đó điện Bà lớn hơn hết, thờ một vị nữ thần là Linh Sơn thánh mẫu.


 


Tương truyền kể rằng: xưa kia có một người con gái là Lý Thị Thiên Hương ở Trảng Bàng, nhan sắc lộng lẫy, do tình duyên trắc trở, người con gái này bỏ lên núi và bị bọn phỉ giết chết, xác khô đen. Tên núi là Bà Đen có từ đó. Bà Đen có núi đá gập ghềnh, cây cối xanh tốt, trên có chùa Vân Sơn trông xuống hồ nước, nước hồ trong lặng. Đường lên đỉnh núi quanh co, có rất nhiều cảnh trí do thiên nhiên tạo ra. Lên trên cao, hướng về phía đông nam là ngọn núi Cậu. Hướng về phía tây bắc là ngọn núi Heo và núi Phụng.
 




-CHÙA HANG, CHÙA THƯỢNG, CHÙA HẠ

Tại núi Bà Đen, trước kia có nhiều chùa, nhưng từ khi có chiến tranh thì các chùa bị hư hại. Hơn nữa, nơi này là chiến khu cộng sản, chẳng ai dám lên cúng tế, thăm viếng. Sau 1975, Việt Cộng thấy tôn giáo cũng là phương cách làm giàu, và cũng là phương cách bảo vệ an ninh, tình báo. Do đó, một số cán bộ, bô đội phục viên cho vào ở các chùa và lập các chùa.  Bà. Bà Nguyễn Thị Định (1922), quê tỉnh Long Xuyên (An Giang ngày nay) là cán bộ cộng sản, nay trở thành Thích Nữ Diệu Nghĩa, Viện chủ cai quản các chùa trên núi Bà Đen.

 Hoi xuan nui Ba

Tại Bà Đen có ba khu triển lãm bảo tàng được hình thành. Đó là động Kim Quang, khu chùa Hang và Chân Núi. Toàn bộ quần thể núi Bà rải rác có nhiều chùa, nhưng chỉ có ngôi chùa chính có quy mô lớn. Ngoài chùa Thượng (chùa Bà) còn có chùa Hạ, chùa Trung. Những ngôi chùa này đã được xây dựng từ lâu đời, nhưng qua các cuộc chiến tranh ác liệt, bom đạn tàn phá nên đổ nát. Những ngôi chùa hiện nay được xây dựng lại từ các năm 1995, 1997.



Phật Niết Bàn (núi Bà Đen - Tây Ninh)

Từ những ngày đầu tiên xây dựng chùa có các vị tổ sư: Chủ tổ Thiệt Diệu, Tế Giác, Đại Cơ, Đạo Trung, Tánh, Thiền Hải Hiệp (nay còn tháp ở chùa). Tiếp đến là Thánh Thọ Phước Chí (tại vị 1871 - 1880). Tổ Trừng Tùng Chơn Thoại kiến thiết chùa phật, nhà giảng đường (tại vị 1880 - 1910). Tổ Tâm Hòa Chánh Khâm (tại vị 1910 - 1937) xây cất chùa tổ bằng đá (1922 - 1924), nhà tổ bằng đá (1937). Tổ Nguyên Cơ Giác Phú, Nguyên Cần Giác Hạnh lập tháp cho bổn sư và sư huynh (1939), Sư Nguyên Bộ Giác Ngọc (tự DiNa) trụ trì từ 1946 - 1957. Hòa Thượng Nguyên Chất Giác Điền (tại vị 1952 - 1957) thay mặt hàng năm lo liệu lễ vía Bà và khai trường hương, trường kỳ. Từ năm 1956, lập ra Hội núi Điện Bà do bác sĩ Nguyễn Văn Thọ giữ chức danh Hội trưởng.


113 . CHÙA VĨNH TRÀNG -Mỹ tho


Chùa Vĩnh Tràng tọa lạc ở đường Nguyễn Trung Trực, xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. ĐT: 073.873427. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Cổng chùa được trùng tu năm 2005, phía trên được tôn trí tượng Đức Phật A Di Đà

 
Chùa vốn là một thảo am do ông Tri huyện Bùi Công Đạt xây cất vào khoảng đầu thế kỷ XIX. Đến năm 1849, Hòa thượng Thích Huệ Đăng trụ trì đã tổ chức xây dựng thành ngôi đại tự và đặt tên là chùa Vĩnh Tràng. Kế vị trụ trì là Hòa thượng Thích Thiện Đề. Khi ngài viên tịch, ngôi chùa hương tàn khói lạnh.



Năm 1890, bổn đạo đến chùa sắc tứ Linh Thứu thỉnh Hòa thượng Quảng Ân – Chánh Hậu về trụ trì. Năm 1895, ngài đã tổ chức xây lại ngôi chùa. Chùa lại bị hư hỏng nặng vì trận bão năm 1904. Từ năm 1907 đến năm 1911, ngài đã khuyến giáo tín đồ đóng góp công của đại trùng tu ngôi chùa và mời điêu khắc gia Tài công Nguyên đảm nhận phần trang trí và tạc các tượng thờ trong chùa.





Hòa thượng Chánh Hậu gốc người Minh Hương, sinh năm 1852 tại làng Điều Hòa, tỉnh Định Tường (cũ). Năm 1876, ngài quy y thọ giới với Hòa thượng Thích Minh Phước tại chùa Bửu Lâm. Ngài đã được cử làm Thủ tọa chùa sắc tứ Linh Thứu từ năm 1880, trụ trì chùa Vĩnh Tràng từ năm 1890, và đã thường xuyên mở các lớp gia giáo để đào tạo tăng tài. Ngài viên tịch vào năm 1923. Hòa thượng Tâm Liễu – An Lạc (tức HT. Minh Đàng, thế danh Lê Ngọc Xuyên) kế tục, cho xây cổng tam quan, mặt tiền, chánh điện và nhà tổ.

 

Cổng giữa của tam quan làm bằng sắt theo kiểu Pháp. Hai cổng hai bên làm bằng xi măng, dạng cổ lầu, được ghép toàn mảnh sành sứ với nhiều đề tài bông hoa, thú vật, truyện tích... do thợ Huế làm, trong đặt tượng chân dung HT. Chánh Hậu và HT. Minh Đàng do nhà điêu khắc Nguyễn Phi Hoanh thực hiện vào năm 1933.

Chùa rộng khoảng 2 hecta. Trước có sân kiểng và tượng đức Phật Thích Ca tham thiền dưới cội bồ đề. Bên phải có ao sen, tượng đài Bồ tát Quan Thế Âm, hai bên có nhiều ngôi tháp cổ của các vị Hòa thượng tiền bối, phía sau có hội trường và phòng phát hành kinh sách. Trong khuôn viên chùa còn có nhiều cây cao bóng mát và vườn cây ăn trái. Mặt tiền chùa được xây bằng bê tông nửa Á nửa Âu. Đây là môtíp La Mã xen với môtíp Phục Hưng, bông sắt Ấn Độ, gạch men Nhật Bản. Những câu chữ Hán viết theo thể truyện xen với những câu niệm Phật chữ quốc ngữ. Đứng xa trông vào nóc chùa mường tượng như năm tháp Ăngkor.



Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Tượng Phật Trung Tôn, bộ tượng Di Đà Tam Tôn (đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí), tượng Đản sanh, tượng Di Lặc và tượng Thất Phật Dược Sư được tôn trí ở án giữa. Hai bên án thờ có tượng hai vị Hộ Pháp, tượng chân dung Hòa thượng Chánh Hậu và Hòa thượng Minh Đàng. Chùa còn đặt thờ nhiều tượng như Quan Âm, Địa Tạng, Ngọc Hoàng, Minh Vương... Đặc biệt, hai bên vách có thờ bộ Thập bát La Hán, mỗi tượng cao khoảng 0,80m, cỡi trên các con thú như trâu, ngựa, lạc đà,... là những tác phẩm tượng tròn độc đáo của Nam Bộ.





Chùa có nhiều bao lam và hoành phi, câu đối. Các bao lam ở đây được chạm trổ công phu, như bộ bao lam Bát tiên kỵ thú đặt ở gian giữa.Vĩnh Tràng là ngôi cổ tự danh tiếng bậc nhất ở miền Nam.

114. CHÙA THANH TRƯỚC -Gò Công


Chùa tọa lạc tại ấp Gò Tre, xã Long Thuận, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Chùa được dựng vào năm 1826, có tên là chùa Phật Linh. Tương truyền chùa do các mục đồng dựng lên vào năm 1826. Lúc đầu, đây chỉ là một thảo am nhỏ có tên là Phật Linh. Đến khi Thiền sư Ngô Thiện, thuộc dòng Lâm tế chính tông đời thứ 39 về trụ trì, chùa mới được xây cất tôn nghiêm và lấy tên là Thanh Trước. Năm 1851, hoà thượng Chân Hội về làm trụ trì đã cho trùng tu và mở rộng ngôi chùa. Năm 1896, hoà thượng Hải Tràng cho trùng tu chùa. Hoà thượng Hoằng Thông đã cho sửa chữa vào các năm 1946, 1958 và 1989.


Chùa Thanh Trước
Chùa Thanh Trước

Khi xưa, khuôn viên nhà chùa rất rộng, nay chỉ còn khoảng 1 ha. Qua các lần trùng tu, diện mạo chùa Thanh Trước cũng đã thay đổi khá nhiều. Nhưng bên trong chánh điện vẫn còn bảo lưu được nét kiến trúc cổ với 40 chiếc cột gỗ đen bóng và rui mè, mái ngói. Các bệ thờ đã được xây dựng lại và tô bằng đá mài. Ở bàn thờ tổ không thờ tổ Đạt Ma mà thờ đức Tỳ Ni Đa Lưu Chi với một khung kính ghi rõ tiểu sử. Hậu tổ có 4 tấm linh vị của các dòng Lâm Tế chính tông đã trụ trì ở chùa. Trong chùa còn lưu giữ nhiều di vật quý, như tượng Đức Phật, chân dung Tổ Tì Ni Đa Lưu Chi, ở khuôn viên chùa có tháp Tổ.


115. CHÙA PHƯỚC LÂM- Cai Lậy


Chùa tọa lạc tại xã Phú Nhuận, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Từ Saigon  theo quốc lộ 4 đến Cai Lậy, đi tiếp khoảng 7km đến cầu Phú Nhuận, quẹo phải theo đường vào cầu Rạch Cá Rắn, đi hơn 2km thì đến chùa. ĐT: 073.829223. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

 

Tài liệu của chùa cho biết, chùa được thành lập vào hậu bán thế kỷ XVIII. Theo một số nhà nghiên cứu hiện nay, chùa được ngài Trừng Trữ, hiệu Quảng Huệ, khai sơn vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Ngài tịch vào ngày 17 tháng 9 năm Đinh Hợi (1887). Về sau, ngài Khánh Huy về trụ trì, đã cho tái thiết ngôi chùa vào năm 1921, khai Trường Hương từ năm 1923. 
 
 Toàn cảnh chùa - 1998

Ngài là vị cao tăng, học rộng đức cao, có nhiều đệ tử ở khắp nơi. Vào năm 1932, ngài dự kiến đại trùng tu ngôi chùa, để có chỗ rộng rãi cho chư tăng các nơi về tu học, nhưng vì nhân duyên đã mãn, ngài viên tịch, nên việc trùng tu phải đình lại. Kế thế trụ trì là ngài Tịnh Biên – Nguyên Đắc (1932 – 1960), ngài Nguyên Trí – Tịnh Trí (1960 – 1974) và Tỳ kheo ni Nguyên Hiền (1974 – 1987) đều có tổ chức trùng tu.




Ngôi chùa ngày nay tọa lạc trong một khuôn viên rộng 2ha, được xây dựng bằng vật liệu kiên cố.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chính giữa thờ đức Phật Thích Ca tọa thiền trên Kim Cang tòa. Tượng đức Phật cao 3,5m, nặng hơn 1 tấn, đúc tại chùa năm 1998. Hai bên điện Phật là phù điêu hai vị Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền, cùng sáu bức phù điêu về lịch sử đức Phật Thích Ca: Đản sanh, xuất gia, cắt tóc, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn. Chùa còn lưu giữ nhiều tấm biển, câu đối, tượng thờ, long vị cổ.Phước trạch khánh do tâm hòa hiệp thập phương tâm thành tâm đồng chú nguyện.
Lâm tùng huy tại giác thượng kỳ tứ chúng giác viên giác phổ hương triêm.

(câu đối năm 1923)

116. CHÙA PHÁP BẢO- Mỹ Tho
 

Chùa tọa lạc ở số 44/448 đường Lý Thường Kiệt, phường 5, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Điện thoại: 073.878168, 073.878169. Chùa thuộc Hệ phái Phật giáo Nam tông.Ngôi chùa được xây dựng vào năm 1966.



Chùa Pháp Bảo, tọa lạc tại số 44 / 448 Đường Lý Thuờng Kiệt - Phường 5 -Tp. Mỹ Tho - Tỉnh Tiền Giang. Nguyên trước đây gia đình ông Phán Lễ ( Ông Nguyễn Văn Lễ, làm công chức bậc trung gọi là Phán hoặc thông phán - gọi tắt là Phán Lễ, cho nên vợ ông là bà Phan Thị Trường - được gọi là Bà Phán Lễ ) là một gia đình giàu tại Mỹ Tho, có nhiều ruộng đất - trong đó có mảnh đất ông bà cho những người nghèo đến lập mộ chôn cất miễn phí.
Năm 1966: Qua sự giới thiệu của Cô Bảy An ( là Phật tử Nguyên Thủy - người Mỹ Tho ), ông bà Phán Lễ đã hoan hỷ cúng mảnh đất ấy để Giáo hội làm chùa. Lúc bấy giờ Hòa Thượng Giới Nghiêm ( hitasīlo Mahathera )  là Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam nhận lãnh phần đất này sau khi người dân đã hốt cốt mả để chính quyền bàn giao miếng đất ( gần 1 hecta ) cho Giáo hội.


Ngày 27 / 02 / 1966: Ngài Tăng Thống cùng chư Tăng và Phật tử từ Sài Gòn xuống Mỹ Tho làm lễ an vị Phật và bàn giao ngôi chùa nhỏ ( được lợp lá đơn sơ, chưa dựng vách ) cho ngài Hòa Thượng Pháp Lạc ( Sukhadhammo Mahathera ) quản lý và xây dựng. Hòa Thượng Giới Nghiêm ban hiệu chùa là Pháp Bảo ( vì chùa cùng hệ thống là chùa Phật Bảo ở quận Tân Bình - TP.HCM - chùa Tăng Bảo ở tỉnh Quảng Ngãi ). Vào hạ ( 06 / 11 / 1966 ) Cô Trần Thị Thự làm chủ lễ dâng y Kathina đầu tiên tại ngôi chùa Pháp Bảo này.

 

Năm 1967: Hòa Thuợng Pháp Lạc xin phép Giáo hội làm lễ đặt viên đá đầu tiên, chính thức khởi công xây dựng ngôi chùa Pháp Bảo.
Ngày 03 / 01 / 1968: Làm lễ an vị Phật, và thờ năm viên Xá Lợi Đức Phật được tổ chức trọng thể dưới sự chứng minh của ngài Tăng Thống Giới Nghiêm, mặc dù phần xây dựng chánh điện chưa hoàn tất. Cổng tam quan chùa được xây dựng vào năm 1974.

 

Năm 1990: Hòa Thượng Pháp Lạc tạo thêm bốn Phật cảnh trong khuôn viên chùa ( Đản Sanh - Thành Đạo - Chuyển Pháp Luân - Nhập Niết Bàn ).
Năm 1997: Xây Tăng xá gồm sáu phòng dành cho khách nghỉ ngơi.
Ngày 12 / 05 / 2001: ( Nhằm ngày 20 / 04 năm tân tỵ ) Hòa Thượng Pháp Lạc viên tịch tại chùa Pháp Bảo - hưởng thọ 98 tuổi ( 40 năm hạ lạp ). Sinh thời ngoài việc xây dựng chùa Pháp Bảo - Mỹ Tho, Ngài còn sáng lập nhiều ngôi chùa Phật Giáo Nguyên Thủy khác như: Chùa Phước Hải - Châu Thành - Tiền Giang, Chùa Bình Long - Phan Thiết - Bình Thuận, Chùa Thái Bình - Bất Nhị - Quảng Nam, Tịnh Thất Bửu Thanh - Gò Công Đông - Tiền Giang.


Hiện nay đất chùa chỉ còn lại 1 hecta, qua những đợt trùng tu và xây dựng mới, chùa Pháp Bảo trở nên khang trang - thoáng mát - thanh tịnh - trang nghiêm thu hút nhiều Phật tử đến lễ bái và tu học sinh hoạt. Hàng năm vào rằm tháng 04 ( âm lich ) chùa cung thỉnh Xá Lợi Phật trên bảo tháp xuống chánh điện cho chư Tăng Ni Phật tử gần xa chiêm bái.
Với vai trò là người kế tục trụ trì - Đại Đức Bửu Hiền cố gắng thu thập qua nhiều phương tiện như băng - đĩa - kinh - sách tài liệu để giới thiệu, cũng như tranh ảnh từ Thái Lan - Sri Lanka giúp cho chư Tăng tu nữ Phật tử thuận lợi trong việc nghiên cứu tu học, ngoài ra trong thư viện chùa còn có ba bộ kinh tam tạng tiếng Thái - Camphuchia - và tiếng Anh ( do ngài Thiền Sư Kim Triệu ở mỹ hiến cúng ). Đồng thời qua đó thực hiện ý nguyện của Hòa Thượng Pháp Lạc khi ngài còn tại thế là: Xây thêm phòng ốc mở lớp học Pali tạo điều kiện cho Tăng Ni Phật tử học hỏi thực hành giáo lý nhà Phật và hiểu rõ về nhân qủa, dự kiến sẽ thỉnh các vị Sư Sri lanka tới giảng dậy, đào tạo Tăng tài lớp kế thừa Hoằng Truyền Phật Pháp Lợi Lạc Quần Sanh.
Hàng tháng, chùa tham gia các hoạt động từ thiện tại Tân Mỹ Chánh, hội người mù,  bệnh viện tâm thần Nhị Bình tại huyện Cai Lậy.
Có thể nói chuẩn xác là Hòa Thượng Pháp Lạc chính là vị Tổ khai sáng nền Phật Giáo Nguyên Thủy Tại Tỉnh Tiền Giang, và chùa Pháp Bảo là ngôi chùa tiêu biểu của Phật Giáo Nguyên Thủy Tải Tỉnh Tiền Giang.





































 Tam quan chùa được xây năm 1974. Chùa được trùng tu vào năm 2004.


Chùa có nhiều công trình xây dựng như giảng đường, tăng xá, cốc tu, tháp mộ Hòa thượng Pháp Lạc (cao 13m), cùng vườn tượng Phật lộ thiên như: vườn Lâm Tỳ Ni, tượng Thái tử tu khổ hạnh, tượng Phật thành đạo và tượng Phật nhập niết bàn.Cảnh chùa thoáng đãng, thanh tịnh, trang nghiêm.


Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chính giữa thờ đức Phật Thích Ca tọa thiền trên Kim Cang tòa. Tượng đức Phật cao 3,5m, nặng hơn 1 tấn, đúc tại chùa năm 1998. Hai bên điện Phật là phù điêu hai vị Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền, cùng sáu bức phù điêu về lịch sử đức Phật Thích Ca: Đản sanh, xuất gia, cắt tóc, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn. Chùa còn lưu giữ nhiều tấm biển, câu đối, tượng thờ, long vị cổ.


117. CHÙA LINH PHONG- Mỹ tho

Chùa tọa lạc tại 178/1, thị trấn Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. ĐT: 073.831489. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.Ngôi chùa nhỏ được xây cất vào cuối thế kỷ XIX.
Trước đây, chùa do Hòa thượng Thích Minh Giám trụ trì. Năm 1940, ông Hộ Thông tổ chức trùng tu và thỉnh Hòa thượng Thích Đạt Hương về trụ trì. Năm 1988, Hòa thượng viên tịch. Sư cô Thích Nữ Tắc Hoa trụ trì hiện nay.


Mặt tiền chùa

Toàn cảnh chùa

Chùa đã được trùng tu vào các năm 1916, 1940, 1955,1989. Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chùa tôn trí tượng Di Đà Tam Tôn, Thập bát La hán, Thập Điện Minh Vương... Chùa giữ được một số pho tượng cổ.


Chùa Hội Thọ  


118. CHÙA HỘI THỌ- Cái bè

Chùa có tên là Kim Chương, hiện tọa lạc ở ấp Mỹ Hưng, xã Thiện Trí, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. ĐT: 073.753244. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa nguyên là chùa sắc tứ Kim Chương, chùa sắc tứ Phổ Quang, chùa sắc tứ Thiên Trường, là ngôi đại già lam bậc nhất ở đất Gia Định.Chùa do ngài Đạt Bản, quê ở Quy Nhơn, khai sơn năm Ất Hợi (1755), gốc ở thôn Tân Triêm, huyện Bình Dương, nay ở vào khoảng chùa Lâm Tế, đường Nguyễn Trãi, SAIGON.

Chùa Hội Thọ

Chùa Sắc tứ Kim Chương đổi tên là Sắc tứ Phổ Quang tự khi Đông cung Nguyễn Phúc Dương về Gia Định và mượn chùa để lên ngôi. Năm 1804, chùa sắc tứ Kim Chương đã mở Đại giới đàn đầu tiên ở Nam Bộ. Đây là một sự kiện quan trọng ở vùng đất phương Nam.
Năm 1813, Thừa Thiên Cao Hoàng hậu hỷ cúng một vạn quan tiền, sai tướng Trần Nhân Phụng đêm lính thợ đến trùng tu chùa. Chùa được triều đình Huế cử tăng cang về trụ trì và đổi tên chùa là Sắc tứ Thiên Trường tự. Theo Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí thì bấy giờ chùa rất rộng lớn: trước có sơn môn và nhà thiêu hương, trong có chánh điện, hai bên có Đông lang và Tây lang, phía sau có phương trượng và nhà chứa kinh sách.
Năm 1859, khi quân Pháp tấn công Gia Định, Tăng cang Hòa thượng Minh Giác đã chuyển ngôi quốc tự và Phật tượng về Cái Bè, đổi tên là Hội Thọ tự. Chùa đã bị hư hỏng gần như hoàn toàn qua những năm tháng chiến tranh. Ngôi chùa hiện nay được dựng đơn sơ vào năm 1982.

Đài Quan Âm

Hoa sen

Năm 1992, Ban Trị sự Phật giáo tỉnh bổ nhiệm Đại đức Thích Phước Huy về trụ trì chùa, nhưng sau đó không lâu, Đại đức qua đời. Phía sau chùa có 3 ngôi tháp. Tháp Hòa thượng Minh Giác, tháp Hòa thượng Thiệu Long, tháp Yết ma Quảng Tục.
Chùa còn giữ được nhiều bài vị và tranh chân dung của các vị Tổ. Bộ tượng gỗ do Thừa Thiên Cao Hoàng hậu cúng năm 1813 gồm các pho tượng Địa Tạng, Đạt Ma, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Minh Vương, Già Lam, Phán Quan được tạc đặc sắc. Đặc biệt, pho tượng đức Phật A Di Đà bằng đất sét cao 0,55m, ngang gối 0,40m, đang tọa thiền, có niên đại khoảng đầu thế kỷ XIX, là một tác phẩm mỹ thuật đặc sắc của Gia Định xưa.

119. CHÙA BỬU LÂM -Mỹ Tho
 
Chùa tọa lạc tại đường Anh Giác, phường 3, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. ĐT: 073.876613. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do bà Nguyễn Thị Đạt xây dựng vào năm 1803. Chùa đã trải qua 10 đời truyền thừa, trụ trì đầu tiên là Hòa thượng Từ Lâm, nguyên ở chùa Hội Tôn (Bến Tre). Hòa thượng Thiên Trường đã cho trùng kiến ngôi chùa vào năm 1905.

 

Chùa Bửu Lâm - 1992

Mặt tiền chùa


Hòa thượng Thích Huệ Thông cho sửa lại mặt tiền năm 1994 – 1995 và tiếp tục tôn tạo ngôi chùa khang trang. Hòa thượng hiện là thành viên Hội   đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa bảo tồn nhiều pho tượng và bộ tượng cổ, nhiều bao lam chạm trổ tinh xảo. Chùa nay vẫn giữ nét đẹp cổ kính, là ngôi cổ tự danh tiếng ở miền Nam.

120. CHÙA PHƯƠC LONG-Gò Công

Ngôi chùa tọa lạc ở ấp 7, xã Tân Tây, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang.Chùa do thiền sư Vô Đại - từ miền Trung vân du vào Nam hoằng đạo - lập nên vào khoảng giữa thế kỷ XVIII. Lúc đầu, chùa có kết cấu rất đơn sơ. Từ khi thành lập đến nay, chùa đã trải quà nhiều lần trùng tu, sửa chữa.

Ngôi chùa hiện nay gồm 3 gian 2 chái, được nâng đỡ bởi các cột tròn bằng danh mộc. Chánh điện tuy không đồ sộ nhưng tập trung rất nhiều tượng quý. Sau chánh điện là hậu tổ - nơi đặt bài vị các tổ truyền thừa dòng Liễu Quán trong đó, có bài vị của tổ Chánh Niệm Hải Hội và tổ Bảo Tạng Hải Bình - 2 danh tăng có nhiều công sức hoằng truyền dòng Liễu Quán vào Nam Bộ, tuy 2 ngài không trụ trì tại chùa. Các vì kèo của gian hậu tổ còn ảnh hưởng khá đậm phong cách Huế kiểu giả thủ.

Chùa Phước Long.


121. CHÙA HỘI TÔN- Bến Tre

Tọa lạc tại ấp 8 - xã Quới Sơn (Châu Thành), Hội Tôn cổ tự được biết đến là ngôi chùa cổ nhất và có giá trị lịch sử văn hóa ở Bến Tre. Theo danh bộ lịch sử những ngôi chùa do Ban Đại diện Phật giáo huyện Châu Thành biên soạn, Hội Tôn cổ tự được thành lập vào năm 1740, do bà Cù Thị Báo và con gái Trần Thị Mỗi ở ấp Quới Hòa Đông tạo lập. Với thảo am ban đầu, những người mộ đạo quanh vùng thỉnh mời hòa thượng để tụ tích hoằng dương Phật pháp. Sau khi tụ tích, ngoài việc truyền dạy giáo lý Bắc tông, Hòa thượng Long Thiền còn dạy cho bổn đạo và cư dân trong vùng cách đóng thuyền bè, cách ươm tơ, dệt lụa, võ nghệ… Đến nay, Hội Tôn cổ tự trải qua 18 đời trụ trì.

 
  


Theo lời kể của ông Hồ Ngọc Sánh, cháu đời thứ 6 của người lập Hội Tôn Tự, những năm 1804-1805, chùa được cất lại bằng gỗ, gồm chánh điện, sân khấu, nhà Tổ, phòng sư sãi, tăng ni, lẫm lúa, nhà đãi, nhà trù… Xung quanh trồng cây ăn quả, sao, dầu, gõ và 2 cái ao nuôi cá phóng sinh. Năm 1884, chùa được trùng tu một lần nữa nhưng vẫn giữ gần như nguyên vẹn nếp xưa. Do chiến tranh tàn phá, năm 1947, chùa được xây dựng lại, còn giữ nhiều cột gỗ nhưng vách bằng tường, mái lợp ngói. Tuy không còn hình dạng của chùa cũ nhưng vẫn đậm nét văn hóa Việt theo kiến trúc dạng chữ đinh. Năm 1973, chùa một lần nữa được trùng tu và vẫn giữ nét cổ kính của một ngôi chùa mái ngói âm dương vốn có.Chùa hiện nay còn giữ một số bản gỗ khắc kinh (chữ Hán), nhiều pho tượng cổ như: Hộ Pháp, Tiêu Diện, Minh Vương...Trong vườn chùa có 15 bảo tháp các ngài Bảo Chất, Quảng Giáo, Tâm Định, Chánh Hòa...
 

Trên đây là hình chùa mới xây. Ngày nay, cộng sản tái thiết chùa, phá chùa cũ làm chùa mới, họ lấy tiền bạc nhưng đã làm mất dấu vết cổ tích.


122. CHÙA GIÁC THIÊN- Vĩnh Long


Chùa tọa lạc tại số 70 đường Trần Phú, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. ĐT: 070.822328. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa do bà Trương Thị Lâu (sau bà xuất gia, pháp danh Như Đạt) xây dựng vào năm 1906. Chùa đã được trùng tu nhiều lần.




Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa có nhiều tượng Phật, Bồ tát là những tác phẩm điêu khắc có giá trị nghệ thuật. Thượng tọa Thích Phước Tú đang tiếp tục trùng tu, trang trí ngôi chùa.

Chùa Giác Thiện phát gạo cho dân

123. CHÙA PHÁP HẢI
- Vĩnh Long

Chùa tọa lạc ở số 195 đường Trần Phú, phường 4, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. ĐT: 070.828909. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do Thiền sư Pháp Hải xây dựng vào năm 1962.
Chùa được trùng tu vào năm 1980. Trước đây, chùa là trụ sở Hội Phật học Nam Việt tỉnh Vĩnh Long


Chùa - Pháp Hải - Pagoda


124. TỊNH XÁ NGỌC VIÊN - Vĩnh Long

Tinh xá tọa lạc tại số 14/20/2 đường Xóm Chài, phường 2, thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. ĐT: 070.823827. Chùa thuộc hệ phái Khất sĩ, Giáo đoàn 1.Tịnh xá được dựng vào cuối năm 1948, là một trong những dấu tích đầu tiên khai mở giáo pháp của Tổ sư Minh Đăng Quang. Năm 1949, Đại lễ Tự tứ Tăng và Vu lan bồn được tổ chức với quy mô lớn tại tịnh xá đã ảnh hưởng rộng khắp trong sinh hoạt Phật giáo của toàn sơn môn hệ phái.


Tổ đình Tịnh xá Ngọc Viên


Ban đầu, ngôi chánh điện hình chữ nhật (tượng trưng thuyền Bát nhã), dài 16m, rộng 8m được dựng bằng cây lá đơn sơ trên mảnh đất do ông Lê Quang Nhiêu cúng dường, giữa đặt pháp tháp tôn trí đức Phật Thích Ca. Đến năm 1971, đức Trị sự Thích Giác Như đã tổ chức trùng tu ngôi chánh điện với những vật liệu bán kiên cố. Phía sau pháp tháp thờ Phật là bàn thờ ảnh chân dung Tổ Sư cùng tủ kinh Chơn Lý, là bộ sách ghi những bài thuyết pháp của Ngài trong 10 năm hành đạo (1944 – 1954).




Ngôi chánh điện mới được Thượng tọa Thích Giác Giới tổ chức khởi công xây dựng vào ngày 06 – 8 – 1993, khánh thành trọng thể vào ngày 08–01–1995 trên mảnh đất (kế ngôi chánh điện cũ) do ông Trần Quang Minh (pháp danh Thiện Niệm) và bà Lê Thị Nho (pháp danh Nhu Ngọc) cúng dường. Kiến trúc chánh điện hình bát giác (tượng trưng Bát Chánh Đạo) với ba tầng mái (hai mái trên lợp ngói móc Biên Hòa, mái dưới lợp fibro sơn đỏ). Chánh điện có đường kính 18,10m, cột cái cao 11,40m, cột hàng 4 cao 3,50m. Tượng đức Phật Thích Ca bằng đá trắng cao 1,60m được tôn trí ở pháp tháp giữa chánh điện. Trên tháp thờ bộ Đại Tạng kinh Việt Nam, phía sau thờ ảnh Tổ Sư Minh Đăng Quang.

Tôn tượng Đức Bổn Sư tại Chánh điện Tổ Đình Ngọc Viên

Di ảnh Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang tại Chánh điện Tổ Đình Ngọc Viên

Bộ Chơn Lý hiện còn được thờ tại Tổ Đình Ngọc Viên



Với diện tích đất 6.193m2, ngoài ngôi chánh điện, Tịnh xá đã tôn tạo, xây dựng nhiều công trình khác như: cốc Tổ Sư (lập năm 1948, trùng tu năm 1999) bên cạnh cây bồ đề do chính Tổ Sư gieo trồng, nhà thờ Cửu huyền thất tổ, nhà Tỳ kheo, nhà Sa di, nhà khách nam Phật tử, nhà khách nữ Phật tử, các cốc nhỏ dành cho các sư tĩnh tu, thư viện, trai đường, nhà bếp...
Nhiều vị cao đồ của Tổ sư đã đến trụ xứ, tu học tại tịnh xá như: Trưởng lão Nhị Tổ Giác Chánh, Trưởng lão Giác Tánh, Trưởng lão Giác Như...


Cốc Tổ sư Minh Đăng Quang tại Tổ đình Ngọc Viên
Cây Bồ Đề do đích thân Tổ sư trồng tại Tổ Đình Ngọc Viên
Giảng đường Pháp Vân
'
Nhà Thọ Trai

Các sinh hoạt tín ngưỡng, hướng dẫn Phật pháp cho giới cư sĩ và chương trình tu học hàng ngày của chư Tăng được duy trì thường xuyên, nghiêm túc. Bên cạnh đó, Hòa thượng trụ trì Giác Giới cũng động viên chư Tăng và Phật tử tịnh xá tích cực đóng góp trong các mặt phát triển của Phật giáo tỉnh nhà, đặc biệt là công tác giáo dục và từ thiện xã hội.
Giờ Tụng Giới Bổn Tăng

Giờ Thiền Tọa
 Giờ Thiền hành

Giờ học Pháp tại Giảng đường Pháp Vân


Tịnh xá hiện còn lưu giữ nhiều di vật của Tổ Sư như: giường nằm bằng gỗ, hai bồ đoàn, một biển ghi Đoàn Du Tăng thường treo trên xe khi hành đạo, một giá để kinh...
Tịnh xá ngày nay còn là một cơ sở Phật giáo hoạt động tích cực trong công tác giáo dục và từ thiện xã hội tại địa phương.


Giờ Thọ Trai


Tịnh xá thuộc Giáo đoàn 1 là Giáo đoàn Du tăng đầu tiên của Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam, nay là hệ phái Khất sĩ, một trong chín tổ chức thành viên tham gia Ban vận động thống nhất Phật giáo, thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày nay. Giáo đoàn 1 do Tổ Sư Minh Đăng Quang thành lập năm 1944, trực tiếp thu nhận Tăng Ni xuất gia, hướng dẫn hành đạo. Trong mười năm hành đạo, Tổ Sư đã chứng minh thành lập hơn 20 ngôi tịnh xá đầu tiên, thu nhận hơn 100 Tăng Ni xuất gia và truyền thọ Tam quy Ngũ giới cho hằng chục vạn tín đồ Phật tử tại gia. Giáo đoàn 1 hiện có 21 ngôi tịnh xá, tịnh thất.
Đây là ngôi Tổ đình của hệ phái Phật giáo Khất sĩ Việt Nam. Hệ phái này hiện có hơn 400 ngôi tịnh xá từ Quảng Trị đến Cà Mau.


125. CHÙA PHƯỚC HẬU - Vĩnh Long
Chùa tọa lạc tại xã Ngãi Tứ, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. ĐT: 070.720574. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa được dựng vào hậu bán thế kỷ XVIII. Thiền sư Hoằng Chỉnh ở Quảng Ngãi vào tu đã trùng tu chùa vào năm 1895 và 1910. Chùa được tiếp tục trùng tu và mở rộng dưới thời Hòa thượng Khánh Anh từ năm 1939 và Hòa thượng Thiện Hoa từ năm 1961 đến năm 1972.


Chùa được trùng tu năm 1995. Chùa có hai ngôi tháp đẹp nổi tiếng, là tháp Thiện Hoa và tháp Đa Bảo. Năm 1972, Hòa thượng Thích Thiện Hoa viên tịch, Thượng tọa trụ trì Thích Hoàn Phú đã cho xây tháp Thiện Hoa, thờ linh cốt của Ngài.


Chùa Phước Hậu

Mặt tiền chùa

Tháp Đa Bảo được kiến tạo vào năm 1966, gồm ba tầng. Tầng trên thờ tượng đức Phật nhập niết bàn và Xá lợi Phật. Tầng giữa thờ Pháp Bảo (một bộ kinh Pháp Hoa). Tầng dưới: Phía Đông thờ linh cốt Tổ Khánh Anh, phía Nam thờ linh cốt HT Thích Quảng Đức, phía Tây thờ linh cốt Tổ Khánh Hòa, phía Bắc thờ linh cốt Tổ Huệ Quang, trung tâm thờ đất Phật tại tám Phật tích ở Ấn Độ.

Toàn cảnh chùa

Lễ giỗ tổ Khánh Anh hàng năm vào ngày 29 và 30 tháng giêng Âm lịch trở thành ngày hội của đông đảo Tăng Ni, Phật tử và dân chúng địa phương.
 
126. CHÙA TIÊN CHÂU - Vĩnh Long
Chùa tọa lạc ở ấp Bình Lương, xã An Bình, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Chùa ở cù lao An Bình, cách trung tâm thị xã Vĩnh Long khoảng 1km theo hướng Tây – Tây bắc. Qua sông Cổ Chiên, chùa cách bến đò khoảng 100m. ĐT : 070.858965.


Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.Chùa Tiên Châu, tức Tiên Châu Tự, còn có tên là chùa Di Đà [1]; là một ngôi chùa cổ nhất ở tỉnh Vĩnh Long (Việt Nam)[2].Chùa Tiên Châu nằm trên bãi Tiên, bên tả ngạn sông Cổ Chiên, thuộc cù lao An Bình (tên tục là cù lao Táng)[3]. Xưa nơi đây thuộc làng Bình Lương và An Thành (nay là ấp Bình Lương, xã An Bình [4]), huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.  


 


Mặc dù chỗ ngôi chùa tọa lạc cách trấn thành Vĩnh Long không xa (chỉ cách có con sông Cổ Chiên), song ở đây không khí tĩnh mịch, cây cối tốt tươi, nhà ở thưa thớt. Theo truyền thuyết, vào những đêm trăng thanh gió mát, thỉnh thoảng có tiên nữ xuống trần tắm gội và đùa giỡn. 

 

Do đó, bãi sông này được đặt tên là bãi Tiên (Tiên Châu) hay bãi Bích Trân. Ngoài ra, vì vùng đất này có nhiều rạch nhỏ, ghe thuyền có thể qua lại dễ dàng nên còn tên là bãi Bát Tân (có nghĩa là đi bốn phương tám hướng).



Nói về chùa Tiên Châu, trong sách Đại Nam nhất thống chí có đoạn:

Chùa Di Đà ở trước bãi Bích Trân, thuộc địa phận huyện Vĩnh Bình, do Hòa thượng Hoàng Đức Hội dựng, nước chảy vòng quanh, am viện thanh u, tục gọi chùa Tiên Châu, lại gọi là chùa Tô Châu[5].


 Nói về bãi Tiên, trong sách Gia Định thành thông chí có đoạn:
Ở phía bắc trấn thành, chu vi 12 dặm, sắc cây xanh biếc, ánh nước long lanh như ngọc bích. Lại có tên là Bát Tân, ý nói bến nước thông cả tám hướng. Nơi này làm cồn cát bảo vệ cho sông Long Hồ, hai bên khép lại như cái vạt áo, quanh vòng ôm lấy hai thôn Bình Lương và An Thành. Bên bờ có những ngư dân phơi lưới, treo tơi, ẩn hiện nơi ngọn rừng, gốc cây. Sông thu thuyền câu giỡn nguyệt, hát hò dưới rặng bần, lênh đênh bên cồn cát trắng, bập bềnh qua lại, tạo nên lạc thú của dân chài [6].

Theo bài viết về chùa Tiên Châu của tác giả Trần Thành Trung, thì khoảng giữa thế kỷ 18 ở nơi bãi Tiên đã có một am nhỏ bằng tranh tre vách lá, gọi là am Bãi Tiên. Người gầy dựng là Hòa thượng Giác Nguyên (trụ trì: ? -1801), người gốc Thừa Thiên, đệ tử của Thiền sư Liễu Quán (? - 1743), theo phái Tịnh độ tông, thờ Phật A-di-đà [7]

 


Năm 1801, sau khi Hòa thượng Giác Nguyên viên tịch, Ni sư Diệu Thiện đến chăm nom am Bãi Tiên. Đến đây, ni sư đã vận động tín đồ và khách thập phương quyên góp tiền của, cất lại am, rồi đổi tên gọi là chùa Bãi Tiên.



Chùa Tiên Châu do Hòa thượng Hoàng Đức Hội dựng có hình chữ "tam", gồm ba gian nối liền nhau là chánh điện, hậu tổ và hậu liêu. Trong chùa có tất cả 96 cột gỗ tròn bằng danh mộc, các kèo, xuyên, trính bằng căm xe, gõ đỏ được chạm trỗ khéo léo của các nghệ nhân địa phương và từ Huế vào. Sau đó, chùa Tiên Châu còn được trùng tu nhiều lần, mà lần sửa đổi quan trọng nhất là vào năm Kỷ Hợi (1899). Khi ấy chùa có bốn gian, gồm tiền đường, chánh điện, trung đường và hậu tổ. Mỗi gian đều làm theo kiểu tứ trụ, được nới rộng theo chiều ngang dọc nhờ các kèo đấm kèo quyết. Bộ giàn trò bằng gỗ quý, mái ngói âm dương, xung quanh đóng vách bổ kho.


Vào khoảng năm 1945, quân đội Pháp đến tái chiếm Vĩnh Long. Từ dưới tàu chiến dàn ở sông Cổ Chiên, họ đã nã đại bác lên bờ. Đạn bay tới tấp vào chùa, nhưng chỉ trúng các cột kèo, còn các tượng Phật chẳng xây xát gì[8]. Đến sau Tết Mậu Thân (1968), chùa lại bị chiến tranh làm cho hư hại nhiều. 

Vì thế, ông Đốc phủ Võ Văn Châu đã đứng bán 5 cây sao của chùa đồng thời vận động tín đồ và khách thập phương, để có tiền trùng tu lại chùa, theo bản thiết kế của Hòa thượng Thiên Hương từ Sài Gòn đem về. Nội điện vẫn giữ như cũ, dựng lại mặt tiền bằng vật liệu bê tông. Sau đó, chùa có chiều dài 46 mét, rộng 20 mét. Trên nóc có 5 ngọn tháp, tháp ở giữa là lớn hơn cả, chánh giữa tháp treo biển Tiên Châu Tự.
Năm 2009, cổng chùa Tiên Châu lại được xây mới, và toàn bộ ngôi chùa cũng được sơn phết lại.


127. CHÙA XIÊM CÁN -Bạc Liêu


Chùa Xiêm Cán nằm cách thị xã Bạc Liêu 7km trên đường ra vườn chim Bạc Liêu. Đây là ngôi chùa của người Khmer lớn nhất và đẹp nhất trong vùng. Chùa được xây dựng hồi thế kỷ 19 với kiến trúc độc đáo. Trên những hàng cột là phù điêu các tiên nữ và những quái vật. Theo triết lý của người Khmer, đó là những thử thách đối với Phật tử trên bước đường tu thành chánh quả.

 
 
 

 Trên mái vòm và cầu thang chùa đều chạm trổ họa tiết có hình rắn vì họ quan niệm rằng tấm lòng từ bi hỷ xả của Đức Phật đã thuần hóa được loài vật nguy hiểm này. Chùa Xiêm Cán mang kiến trúc Angkor của người Campuchia, thể hiện ở những họa tiết độc đáo nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang.


 


Đối với chùa Khmer, chánh điện thường quay về hướng Đông vì họ cho rằng con đường tu hành của Phật đi từ Tây sang Đông. Thông thường, ở đâu có chùa thì đồng bào Khmer tập trung ở xung quanh để học chữ, học giáo lý và học nghề. Vì vậy nên họ ví ngôi chùa là "trung tâm văn hóa của người Khmer". Chính vì sự gắn bó mật thiết như thế nên họ rất tự hào về văn hóa của dân tộc mình.

  


Ngôi chùa Xiêm Cán này do chính tay các nghệ nhân địa phương xây dựng bằng những phương tiện hết sức thô sơ. Bên trong chánh điện của chùa đã phản ánh tính thẩm mỹ rất cao của người Khmer với những hoa văn độc đáo. Ở vị trí trung tâm trên nóc sala trang trí hình ảnh đền Angkor Wat, nơi khởi nguồn của phong cách kiến trúc Khmer. Người Khmer tu theo thuyết của Phật Thích Ca nhưng theo hướng của Phật giáo Tiểu Thừa nên trong Chánh điện thờ Phật Thích Ca là chính.

Chùa mang kiến trúc Angkor của người Campuchia, thể hiện ở những họa tiết nơi mái vòm, tường, các hàng cột và cầu thang.Gian chính điện nằm ngay trung tâm của khuôn viên, trên nền cao 1,5m, nhiều bậc cấp và có hành lang bao quanh.

 
 

Trên mái vòm và cầu thang chùa đều chạm trổ họa tiết có hình rắn vì họ quan niệm rằng tấm lòng từ bi hỷ xả của Đức Phật đã thuần hóa được loài vật nguy hiểm này.

 


Với hai màu chủ đạo là đỏ và vàng, kiến trúc ở đây lúc nào cũng rực rỡ dưới nắng, dường như không chịu sự chi phối của thời gian
 
 
Tượng Phật nằm là nơi được nhiều người dân hương khói
 
 
Cột trụ biểu là hình tượng của con rắn 5 đầu, dùng để thắp nến vào những ngày lễ.

 
Tháp chuông cổ, trên tầng 2 là nơi thờ xá lị
   
Nơi đây cũng có những sala là nơi sư sãi nghỉ ngơi 
  
Hoa văn chạm khắc đều mang đậm phong cách của người Khmer

 

Bên trong điện thờ trưng bày nhiều bức vẽ về quá trình khổ luyện của Đức Phật, có thể coi là tư liệu quý báu cho những  người theo đạo Phật.
  
  

Khu mộ tháp yên bình dưới bóng cây

 
 
 


 Một điều đặc biệt nữa là xung quanh 4 bức tường của chánh điện bày trí rất nhiều hình vẽ giải thích quá trình tu hành khổ luyện của Đức Phật từ lúc sinh ra, đến lúc làm Thái tử cho đến khi vào cõi Niết bàn. Đối diện chánh điện là cột trụ biểu, là hình tượng của con rắn 5 đầu, dùng để thắp nến vào những ngày lễ ngụ ý rằng giáo lý Phật pháp sẽ soi sáng cho nhân loại, giúp mọi người sống hướng thiện như chính loài rắn đã thiện. Dù cuộc sống còn không ít những lo toan nhưng dân tộc Khmer rất mộ đạo.
 Không chỉ gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc, họ còn cố gắng xây dựng cho những ngôi chùa ngày càng to lớn và đẹp đẽ hơn. Không chỉ choáng ngợp bởi vẻ bề thế và lộng lẫy của chùa Xiêm Cán, người Khmer ở đây còn rất mến khách. Họ thật thà, chân chất, hiền lành và luôn cần cù, sáng tạo.
 Qua bao đời người, họ đã lao động, vun đắp tạo cảm giác thư thái cho những người ghé thăm chùa. Vào những dịp lễ hội lớn như lễ Ok Om bok, lễ Chol Chnam Thmay, lễ Đôn Ta, không khí chùa thật rộn ràng. Ngày nay, người ta cảm nhận một sắc thái văn hóa đang phồn thịnh và rất đặc trưng của người Khmer đang từng ngày được gìn giữ, phát huy nhằm làm đẹp hơn, phong phú và đa dạng hơn cho văn hóa Việt Nam.

128. CHÙA TAM BẢO - Rạch Giá

Chùa Tam Bảo là một ngôi chùa cổ tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Chùa Tam Bảo được lập bởi bà Dương Thị Oán, ban đầu có kết cấu đơn sơ, vật liệu chính là tre nứa. Trong thời gian bị Tây Sơn truy đuổi Nguyễn Ánh đã từng trú ẩn tại đây và được bà tặng những cuộn tơ tằm quý giá để làm quai chèo không đứt khi vượt biển[1]. Chính vì thế sau khi lên ngôi, năm 1803, vua đã ban biển Sắc tứ cho chùa, từ đó, chùa được gọi là Sắc tứ Tam Bảo - 敕賜三寳[2].


Sau khi Hòa thượng Trí Thiền và Sư Thiện Ân bị bắt, chùa Tam Bảo bị đóng cửa, không ai được lui tới. Sau 1945 chùa mới được mở cửa lại. Tăng tín đồ Phật tử và nhân dân tổ chức một lễ cầu siêu lớn tại chùa để cầu nguyện cho Hòa thượng Trí Thiền, Sư và các đồng chí đã chết.

.


Chùa tọa lạc nơi cao ráo, thoáng mát, trước cửa chùa có ao sen rộng và hòn non bộ. Trước chánh điện là những tượng Phật lớn trang nghiêm, trầm mặc. Chánh điện được thiết kế theo kiểu thượng lầu hạ hiên. Các bàn thờ được chạm trổ công phu, thếp vàng rực rỡ theo dạng “Lưỡng Long triều Nguyệt”, “Song Phụng Triều Châu”, “Bát Tiên”… với màu sơn son thếp vàng còn rực rỡ. Các tượng phật, bồ tát bằng gỗ như Di Lặc, Chuẩn Đề, Địa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm Thế Chí… được điêu khắc với trình độ mỹ thuật cao.



129. CHÙA HẢI SƠN - Hà tiên

Chùa  này còn có tên là Chùa Hang. Chùa Hải Sơn tọa lạc ở xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. ĐT: 077.854544. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Đây là một di tích nằm trong khu Du Lịch Hòn Phụ Tử cách Ba Hòn 18km, và cũng là điểm hành hương và cũng là điểm tham quan của Hà Tiên-Kiên Giang. Chùa nằm nơi chân núi An Hải Sơn. Vì là núi đá vôi bị xâm thực hàng ngàn năm, nên phía sau chùa có một hang rộng ăn thông ra tới biển, nơi có Hòn Phụ Tử.

Tập tin:Chùa Hang - Kiên Giang.JPG


Chùa được thành lập vào khoảng đầu thế kỷ XVIII. Thời bấy giờ, một vài nhà sư Xiêm La theo đoàn ngư dân đánh cá đến vùng đất Hà Tiên đã đưa hai pho tượng đức Phật Thích Ca đến thờ phụng trong một hang núi tự nhiên tại hòn Chông. Ngôi chùa do các vị sư Xiêm La quản lý đến năm 1770. Sau đó, do chiến tranh, các vị sư Xiêm La về nước, chùa bị bỏ hoang một thời gian. Cư dân địa phương đã thỉnh các vị sư gốc Khmer đến trụ trì chùa, nhưng không bao lâu, các vị sư này chuyển sang xây dựng ngôi chùa Ba Trại (gọi Ba Trại vì chùa nằm trong vùng căn cứ nghĩa quân Ba Trại dưới chân núi Hòn Chông của Lãnh binh Nguyễn Trung Trực).
Năm 1800, hai anh em ruột Võ Thường Lễ và Võ Thường Nghĩa (chưa xác định được pháp danh) trùng tu lại ngôi chùa cũ và đặt tên là Chùa Hang. Kế tục trụ trì chùa Hang cũng là một nhà sư người Việt có pháp danh là Thiện Tông.




Hang đá phía sau chùa Hải Sơn chạy theo trục Đông Bắc - Tây Nam, chiều dài hơn 50m, cửa động nhìn ra biển. Chiều dài hang ăn thông 40m, chỗ hẹp nhất chỉ khoảng 3-4 người đi lọt. Phía trong hang, có các hình dáng kỳ quái do nước ăn mòn tạo nên.

130. CHÙA LONG QUANG -Cần Thơ


Chùa Long Quang (tên chính thức là Long Quang Cổ Tự, chữ Hán: 隆光古寺) là một ngôi cổ tự bên bờ sông Bình Thủy; hiện tọa lạc tại số 155/6, khu vực Bình Chánh, thuộc phường Long Hòa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ, Việt Nam.


Chùa Long Quang do Thiền sư Thiện Quyền [2] lập vào năm Minh Mạng thứ 5 (Giáp Thân, 1824). Lúc đầu, chùa chỉ là một am nhỏ bằng cây lá. Đến năm 1829, Thiền sư Thiện Quyền cho cải tạo lại thành một ngôi chùa bậc trung. Có thể, trong khoảng thời gian này chùa được đặt tên là Long Trường với ý nguyện cầu mong ngôi chùa được vững bền [3]. Năm 1835, Thiền sư lại cho trùng tu chùa.


Đường nhỏ vào chùa qua nhiều kênh rạch

Sau khi Thiền sư Thiện Quyền qua đời, khoảng năm Kỷ Mùi (1859) có nhà sư Quảng Hiền (họ Trần) đến làm Trụ trì chùa. Lúc bấy giờ ngôi chùa đã bị hư hỏng nặng, Sư bèn vận động đồ chúng góp công của xây dựng lại chùa, đến khoảng năm 1861 thì hoàn thành và đổi tên lại là Long Quang.
Năm Kỷ Sửu (1889), có Hòa thượng Từ Quang (pháp hiệu Ngộ Cảm), đến làm Trụ trì chùa. Ở đây, nhà sư vừa tu, vừa bốc thuốc chữa bệnh cho dân, nên được nhiều người tôn kính. Năm 1922, nhà sư Từ Quang đã cho tạc khoảng 50 pho tượng thờ bằng gỗ giáng hương. Đặc biệt hơn cả là bộ Thập Bát La Hán (mỗi tượng cao 80 cm, có tư thế ngồi khác nhau trông rất sinh động) được chạm khắc và đục đẽo từ một khối gỗ, chứ không chắp ghép từng phần. Các tác phẩm ấy đều do một thợ nhóm điêu khắc (đứng đầu là ông Tài Công Kiểm) ở Cần Thơ xưa thực hiện [1].

 
Chính điện chùa Long Quang
 
Sau khi Hòa thượng Từ Quang viên tịch (1924), học trò của Hòa thượng là nhà sư Trí Thới [4] lãnh nhiệm vụ Trụ trì chùa. Năm Canh Ngọ (1930), ngôi chùa đã bị xuống cấp trầm trọng, lại được sự ủng hộ của các Phật tử, nên sư Trí Thới liền cho tái thiết lại chùa, đến cuối năm 1930, thì hoàn thành. Sau lần trùng tu này, chùa có quy mô kiên cố (tường gạch, mái lợp ngói) gồm một ngôi chánh điện (3 gian) rộng rãi và một nhà khói (nhà bếp).



Tòa chính điện chùa Long Quang




Sân chùa
Bia ghi lịch sử chùa





Nhà giảng pháp

Một bên chùa



Ban thờ Tổ


Nội điện

Tượng thờ các vị La Hán bằng gỗ


Điện Phật

Điện Phật




Tượng Ông Thiện


Ban thờ Quan Thế Âm Bồ Tát


Không gian nội điện



Điện Phật

Mái chùa










Nhà khách
 
Trong khoảng thời gian này, nhà sư Trí Thới có mời ông Tòng Hiên (là một Văn Thân ở Quảng Ngãi chạy vào Nam lánh nạn) đến ở tại chùa, để bốc thuốc và dạy chữ cho người dân ở địa phương [5].
Tháng 9 năm 1945, quân Pháp trở lại Việt Nam lần thứ hai. Ủng hộ công cuộc chống Pháp của nhân dân Việt, chùa Long Quang trở thành nơi nuôi chứa của nhiều chiến sĩ hoạt động trong nội thành. Năm 1947, hưởng ứng lời kêu gọi "Tiêu thổ để kháng chiến", Thiền sư Trí Thới hiệp cùng tăng chúng tại đây đã tháo dỡ toàn bộ chùa Long Quang để làm vật cản ngăn tàu Pháp tại Rạch Cam; đồng thời hiến hết các đồ thờ bằng đồng để đúc đầu đạn, trong đó có một đại hồng chung cổ [1].




Năm 1963, Thiền sư Trí Thới viên tịch. Năm sau (Giáp Thìn, 1964), thầy Thích Chơn Khánh [6] đến trông coi chùa. Lúc bấy giờ ngôi nhà chùa đã xuống cấp, lại được Phật tử và nhân dân trong vùng ủng hộ, nên thầy Chơn Khánh đã tiến hành xây cất lại chùa Long Quang trên nền cũ.
 

Vườn tháp

Khi công trình gần xong, thì bị bom đạn chiến tranh làm hư hạị nhiều nên phải làm lại, mãi đến năm Bính Ngọ (1966), ngôi chánh điện mới được xây xong. Theo tài liệu, thì trước năm 1975, trong cuộc đấu tranh chống Hoa KỳViệt Nam Cộng hòa, chùa Long Quang cũng từng là nơi ở, là điểm liên lạc của nhiều cán bộ thuộc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt NamCần Thơ[1].
Trụ trì chùa được gần 20 năm, năm 1983, nhà sư Thích Chơn Khánh viên tịch. Gần 10 năm sau đó, nhà chùa không có nhà sư nào đến làm chủ trì. Việc nhang đèn được một số Phật tử ở gần chùa trông coi.
Đàng sau chánh điện


Đến năm Nhâm Thân (1992), nhận được lời thỉnh cầu của các Phật tử tại địa phương, Ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Cần Thơ bổ nhiệm Đại đức Thích Bình Tâm[7]. Tháng 12 năm 1994, các ban ngành chủ quản hiệp cùng Trụ trì và các Phật tử đã tái thiết lại ngôi chùa Long Quang với dáng vẻ như hiện nay [1].
Năm 2010 - 2011, ngôi chùa lại được tu sửa.
Ban đầu, các vị sư của chùa tu theo phái Lâm Tế có nguồn gốc từ Trung Quốc. Hiện nay nhà chùa đã gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam và chuyển thành hệ phái Bắc tông.

 Điện thờ Phật


Chùa Long Quang tọa lạc trong một khuôn viên rộng khoảng 7.000 m2 nằm cạnh con đường nhỏ trải nhựa và một con rạch nhỏ. Từ ngoài vào trong, có các hạng mục đáng chú ý sau:
Cổng tam quan bằng gạch với hai tầng mái ngói, đầu mái uốn công có gắn hoa văn. Bên trên nóc có gắn đôi rồng trắng ngẩng cao đầu quay ngược vào bánh xe pháp luân ở giữa. Hai cột chính có đôi hai câu liễn đối bằng chữ Hán.
Ngôi chánh điện rộng 324 m2, xây theo lối kiến trúc "Thượng lầu Hạ hiên" (ảnh 2), với mái ngói và tường gạch, cà có tất cả 5 cửa ra vào (trước: 2, sau: 1, bên hông: 2).

Hoa, cây cảnh


Ngay giữa trung tâm là điện thờ chính. Ở đây, bên trên có treo bức hoành phi bằng gỗ được chạm trổ tinh xảo ở giữa gắn bốn chữ Hán Đại Hùng Bảo Điện; bên dưới gắn khung bao lam cũng được chạm trổ hoa văn tinh xảo thếp vàng, hai bên cũng có gắn hai câu liễn đối bằng chữ Hán.
Điện thờ chính được đóng bằng gổ có 2 bậc. Bậc cao kê 3 ghế thờ, tôn trí ba pho tượng Tam Thế Phật (A Di Đà, Đại Thế Chí, Quán Thế Âm) bằng gỗ cao hơn một mét tạc theo tư thế ngồi; bậc thấp tôn tượng Bồ Tát Di Lặc.
 

 Vườn chùa

Ở phía trước bậc cao vừa kể là tượng Phật Thích Ca nhập niết-bàn, bằng gỗ dài một mét, được chạm trổ hoa văn tinh xảo. Đối diện điện thờ chính là bàn thờ Vi Đà Hộ PhápTiêu Diện Đại Sĩ (Ông Tiêu).

131. LIÊN TRÌ CỔ TỰ -Cần Thơ,

Chùa Liên Trì – còn gọi là Liên Trì Cổ Tự, có khuôn viên trên 3.000m2 nằm trên một diện tích đất rộng 21.000m2, tọa lạc tại số 10/15, tổ 9, khu vực Thới Thạnh, phường Thới An Đông, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Hiện nay chùa thuộc hệ phái Bắc tông, do Thượng tọa Thích Thiện Tài làm trụ trì.
Theo dân chúng, chùa hình thành cách đây gần 200 năm, vào đầu thế kỷ XIX, năm Nhâm Thân – 1812 (năm Gia Long thứ 11).




Thời đó vùng đất này còn rất hoang sơ, bà con người dân tộc Khmer cùng với các sư sãi dựng lên ngôi tự viện trên một gò đất cao. Ban đầu chùa còn rất đơn sơ cột cây mái lá và chưa có tên, chỉ biết theo cách gọi truyền miệng với nhau là “Chùa ông Lục”. Lâu dần, vùng đất này có nhiều người Kinh đến định cư sinh sống, người Khmer và các sư sãi dần dần chuyển sang vùng kế cận, từ đó ngôi chùa nhỏ và mấy chiếc thảo am không người trông coi nhang khói. Đến năm Nhâm Ngọ - 1822 (năm Minh Mạng thứ 3), có vị Thiền sư Liễu Thông, tự Chơn Giác thuộc dòng Thiền Lâm Tế (đời thứ 37) tình cờ vân du đến đây, Ngài vận động bà con dân làng cùng sửa sang lại và thu nhận thêm nhiều vị tăng đến cùng tu học.




Đến năm Kỷ Dậu - 1849 (năm Tự Đức thứ 3) có thầy du tăng pháp danh Thiện Quả, (tục gọi ông Đạo Quạ) đến sửa sang lại ngôi chùa, thu nhận đệ tử, hành đạo và trụ trì chùa được 9 năm. Năm Mậu Ngọ - 1858, Thầy Thiện Quả đi hành đạo nơi khác, truyền trụ trì lại cho đồ đệ tên là Thầy Hai người ở Trà Cú (Trà Lòng) tiếp tục trông coi chùa được 18 năm, đến năm Bính Tý – 1876 Thầy Hai viên tịch. Từ đó chùa không còn người trụ trì, chỉ có bà con trong xóm sớm hôm nhang khói.
Mãi đến năm Canh Thìn – 1882 (năm Tự Đức thứ 36) có được vị Thiền sư Phước Định - húy Đạt Thiền, thuộc dòng Thiền Lâm Tế (đời thứ 38) về hành đạo. Thiền sư Phước Định là người Việt nhưng có thời gian sang học đạo tại chùa Tâm Băng, tỉnh Bát Tom Pong - Campuchia. Từ đó, ngôi chùa được trùng tu xây cất lại khang trang, nhiều bà con tín đồ tin tưởng quy tụ đến chùa ngày càng đông. Trong thời gian này, có nhiều người đến nhập môn tu học xin làm đệ tử của Thiền sư và đều tu đắc đạo như các vị: Yết Ma Phước Quang(1), Giáo Thọ Từ Quang(2), Phước Chơn, Từ Minh... Dựa vào quang cảnh có ao sen bên hông chùa, Thiền sư Phước Định chính thức đặt pháp hiệu cho chùa là “Liên Trì Cổ Tự”.




Hòa thượng Phước Định trụ trì chùa được 29 năm thì tạ thế vào ngày 30 tháng 7 năm Tân Hợi (1911) hưởng dương 52 tuổi. Sau khi Hòa thượng Phước Định viên tịch, đệ tử thứ hai của Ngài là Giáo Thọ Từ Minh, húy Ngộ Thúy kế thế trụ trì chùa Liên Trì, nối tiếp truyền trì sự nghiệp đạo pháp do Hòa thượng Phước Định để lại thêm được 19 năm sau. Đến năm Canh Ngọ - 1930 do phải chuyển tu nơi khác, Thầy Từ Minh đã trao truyền chùa cho đệ tử là Thầy Niệm Pháp.
Trong thời gian này, nền chùa (ngôi chánh điện) nằm sát mép rạch, bị sạt lở gần tới nền, và phần mái vách cũng xuống cấp mục nát, nên phải dời vào bên trong cho an toàn. Thầy Niệm Pháp đã kêu gọi bà con dân làng và các tín đồ phật tử cùng chung xây dựng lại ngôi chùa. Đồng bào, tích cực tham gia đóng góp nhiều tiền của, vật liệu để xây dựng mới lại ngôi Tam Bảo (cách nền chùa cũ sát mép rạch vô khoảng 40 mét), trên nền chùa hiện nay.

132 .CHÙA PHẬT HỌC NAM VIỆT -Cần thơ

Chùa tọa lạc ở số 11 đại lộ Hòa Bình, thành phố Cần Thơ. ĐT: 071.827685. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa trước đây là trụ sở của Hội Phật học Nam Việt tỉnh Cần Thơ, được Hội Phật học kiến tạo vào năm 1951.
Chùa trải qua nhiều đời trụ trì. Hòa thượng Thích Thiện Phước về trụ trì chùa từ năm 1965 là vị trụ trì lâu năm nhất. Hòa thượng viên tịch năm 1993. Đại đức Thích Minh Thông kế vị trụ trì đã tiếp tục có nhiều đóng góp và phát huy vai trò của chùa trong những hoạt động Phật sự tại địa phương.



Đại đức Thích Minh Thông đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa vào hai năm 1998 — 1999. Ngày nay, chùa là một tòa phạm vũ uy nghiêm ở trung tâm thành phố Cần Thơ.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Ba pho tượng lớn tôn trí ở trung tâm là tượng đức Phật A Di Đà, đức Phật Thích Ca và đức Phật Dược Sư.
Chùa là nơi quy tụ đông đảo Phật tử đến sinh hoạt và nghe giảng pháp, cùng nhiều đoàn khách trong nước, nước ngoài tham quan, chiêm bái.

133. CHÙA HỘI LINH- Cần Thơ


Chùa Hội Linh, còn có tên gọi khác Hội Linh Cổ Tự, thuộc hệ phái Bắc tông - tọa lạc trên diện tích 6.500m2 tại số 314/36 đường Cách mạng Tháng Tám (cách đường khoảng 200 mét), phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
Chùa Hội Linh được khởi lập vào ngày rằm tháng hai năm Đinh Mùi – 1907, theo dòng Thiền Tông Lâm Tế. Chùa do một gia đình phật tử - ông Phạm Văn Bường (pháp danh Thông Lý) và bà Nguyễn Thị Tám (pháp danh Thông Ngọc) cúng dường đất cho Hòa thượng Thích Khánh Hưng, thế danh Quý Thanh Hương đứng ra trông coi xây cất.

Cổng chùa

Ban đầu chùa được cất đơn sơ bằng cột cây, vách và mái lợp lá, cửa chùa quay ra hướng (Đông Bắc) sông Hậu, đặt tên “Hội Long Tự”. Vì chùa nằm ở ngọn một con rạch nhỏ, nên còn có tên là chùa Xẽo Cạn. Vị trí chùa trên một diện tích đất khá rộng gần 1ha ở địa phận thôn Thái Bình, tổng Định Bảo (thời Pháp thuộc); đến năm 1958 đổi lại thành xã An Bình, tổng Định An, quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh; đến năm 1992 được đổi lại phường An Thới, thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ; Và hiện nay tọa lạc tại số 314/36 đường Cách mạng tháng Tám, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.


Mặt tiền chùa



Hòa thượng Thích Khánh Hưng trụ trì chùa từ ngày khởi lập đến ngày mùng 5 tháng 3 năm Giáp Dần – 1914 viên tịch. Sau khi Hòa thượng Khánh Hưng mất, Hòa thượng Thích Hoằng Đạo, thế danh Võ Văn Nhuận sinh năm Mậu Dần – 1878 thay thế trụ trì cho đến ngày mùng 7 tháng 6 năm Nhâm Tuất – 1922 thì thâu thần thị tịch, hưởng dương 45 tuổi. Mặc dù thời gian trụ trì chùa chỉ 8 năm, nhưng hòa thượng Khánh Hưng là người được bà con phật tử tin tưởng. Theo 2 bảng khắc gổ còn lưu tại chùa, ghi công đức của 75 thiện nam, tín nữ phật tử đồng hỷ cúng 2078 đồng, để hòa thượng xây cất mới ngôi chùa bằng vật liệu kiên cố - tường gạch mái lợp ngói. Mặt tiền chùa được điều chỉnh quay ngược lại về phía đường Cách mạng tháng Tám, hướng Tây Nam và đổi tên thành “Hội Linh Cổ Tự”.

Toàn cảnh chùa
 
134. TÂY AN CỔ TỰ -Châu Đốc

Chùa tọa lạc ở ngã ba núi Sam, xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang. Chùa được Tổng đốc Doãn Uẩn cho xây dựng vào năm 1847. Năm 1861, chùa được trùng tu chánh điện và hậu tổ. Kể từ đời Phật thầy Minh Huyên trụ trì đến nay, chùa đã trải qua 7 đời truyền thừa. Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Kiến trúc chùa ngày nay được tôn tạo dưới thời Hòa thượng Bửu Thọ vào năm 1958. Ngài cho xây 3 ngôi cổ lầu,mặt tiền chùa và sửa lại chánh điện, tạo nét kiến trúc phương Đông kết hợp với kiến trúc Ân Độ.
 


  Ở chánh điện và hậu điện, có khoảng 200 pho tượng, đa số bằng danh mộc. Chùa còn có nhiều hoành phi và câu đối. Chùa là ngôi danh lam bậc nhất ở An Giang và Nam Bộ. Hàng năm có hàng vạn du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.





Năm 1847, Tổng đốc An-Hà (An GiangHà Tiên) là Doãn Uẩn (1795-1850) vui mừng vì lập được đại công đánh đuổi được quân Xiêm La, bình định được Chân Lạp, nên đã cho xây dựng một ngôi chùa bằng tường gạch, nền cuốn đá xanh, mái lợp ngói; và đặt tên là Tây An tự với hàm ý trấn yên bời cõi phía Tây [2].



Năm 1861, Hòa thượng Hoàng Ân (Nguyễn Nhất Thừa) cho trùng tu lại chính điện và hậu tổ. Năm 1958, Hòa thượng Thích Bửu Thọ (18931972) đứng ra vận động xây dựng mới ba ngôi cổ lầu, mặt chính và ngôi chính điện, nên chùa có diện mạo như ngày hôm nay.
Vị sư trụ trì đầu tiên là Hòa thượng Nguyễn Văn Giác (17881875), pháp hiệu Hải Tịnh, tu theo phái Lâm Tế, nên có người còn gọi chùa Tây An là chùa Lâm Tế [3].
Cũng trong khoảng thời gian này (tức vào những năm 1850) ông Đoàn Minh Huyên (1807-1856), người sáng lập ra đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (1849) đến tu tại chùa, nên chùa càng nổi tiếng.





Vườn tháp chùa Tây An Các vị sư trụ trì chùa Tây An gồm: Hải Tịnh (thế danh Nguyễn Văn Giác), Hoàng Ân (thế danh Nguyễn Nhất Thừa), Huệ Quang (thế danh Nguyễn Trang Nghiêm), Thuần Hậu (thế danh Huỳnh Văn Đắc), Thiện Pháp (thế danh Ngô Văn Hòa), Thích Bửu Thọ (thế danh Nguyễn Thế Mật), Huệ Châu (thế danh Hồ Thạch Hùng), Định Long (thế danh Phạm Văn Trực), Huệ Kỉnh (thế danh Trần Văn Cung).[4]
Sách Đại Nam nhất thống chí viết về chùa Tây An như sau:

Chùa ở địa phận thôn Vĩnh Tế, huyện Tây Xuyên, nguyên tổng đốc Doãn Uẩn cho xây dựng năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Chùa đứng trên núi, mặt trước trông ra tỉnh thành, phía sau dựa vào vòm núi, tiếng người vắng lặng, cổ thụ âm u, cũng là một thắng cảnh thiền lâm vậy[5].[6] Chùa Tây An tọa lạc trên nền cao, thoáng rộng, trong khuôn viên có diện tích 15.000 m2. Phía sau có núi Sam như bức bình phong nổi bật lên với màu xanh thẫm. Điểm ấn tượng nhất của chùa là mặt chính với ba ngôi cổ lầu nóc tròn hình củ hành, màu sắc sặc sỡ nhưng hài hòa.



Tây An Cổ Tự (Chùa Tây An)


Chùa cất theo lối chữ “tam”, có kiến trúc kết hợp phong cách nghệ thuật Ấn Độ và kiến trúc cổ dân tộc Việt. Chùa được xây dựng với các vật liệu bền chắc như gạchngói, xi măng. Nơi cổng tam quan là tượng Quan Âm Thị Kính, bên trong cổng là một sân chùa nhỏ có một cột phướn cao 16 m.
Mặt tiền chùa, ở giữa là tháp thờ Phật cao hai tầng. Tầng trên là tượng Phật đứng giữa lầu cao, mái tròn cong, đỉnh nhọn như các tháp xưa ở Ấn Độ. Bốn cột tháp ở tầng dưới có các hộ pháp trấn giữ, phía trước có tượng hai con voi: bạch tượng và hắc tượng.



Chính điện là dãy nhà rộng, hai tầng mái, lợp ngói đại ống, cột gỗ căm xe, nền lát gạch bông. Hai bên là lầu chiêng và lầu trống hình tứ giác, trên đỉnh trang trí các tượng tứ linh (long, lân, qui, phụng) rất mỹ thuật. Đại hồng chung ở lầu chuông được tạo vào năm Tự Đức thứ 32 (1879).
Trong chính điện có khoảng 150 [7] pho tượng lớn nhỏ: tượng Phật, Bồ tát, La hán, Bát bộ kim cang, Ngọc hoàng, Huỳnh đế, Thần nông v.v...Đa số tượng đều làm bằng danh mộc, chạm trổ công phu và mỹ thuật, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc Việt Nam vào thế kỷ 19. Ngoài ra chùa còn có nhiều hoành phi và câu đối, màu sắc rực rỡ.



Chùa Phú Thạnh (Chùa Truông)
 


135. CHÙA PHÚ THẠNH-Châu Đốc

Chùa thường được gọi là chùa Truông, tọa lạc ở tổ 24, ấp Châu Long 6, xã Vĩnh Mỹ, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang.Chùa thường được gọi là chùa Truông, Chùa được dựng vào giữa thế kỷ XIX, đại trùng tu vào năm 1934 và những năm gần đây. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm, kiến trúc chùa mang cả phong cách A-Âu. Chùa là ngôi cổ tự nổi tiếng ở Châu Đốc.

 
  
   

  

136. TỊNH XÁ NGỌC GIANG -Long Xuyên.

  Tịnh xá tọa lạc tại số 80B đường Trần Hưng Đạo, phường Mỹ Xuyên, thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang.Tịnh xá tọa lạc tại số 80B đường Trần Hưng Đạo, phường Mỹ Xuyên, thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang. Tịnh xá được xây dựng vào năm 1960. Sư Giác Thảo đã tổ chức trùng tu, mở rộng vào năm 1992. Tịnh xá thuộc Giáo đoàn 1 của hệ phái Phật giáo Tăng già Khất sĩ Việt Nam.

Tịnh Xá Ngọc Giang

137. CHÙA LONG HƯNG-Châu Đốc


Chùa Giồng Thành, tên chữ Long Hưng tự, thuộc xã Long Sơn, huyện Phú Tân, là một ngôi cổ tự danh tiếng của tỉnh An Giang.Chùa Giồng Thành tọa lạc trên một khu đất rộng, nhiều cây cối tươi tốt, cách đường lộ nhựa Phú Tân - Tân Châu và hữu ngạn sông Cái Vừng (một đoạn của sông Tiền) khoảng 300m, và chỉ cách thị trấn Tân châu (huyện Tân Châu, tỉnh An Giang) 3 km. Nghĩ địa thế đồn Châu Đốc (do Trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường chủ trì xây dựng năm 1815)[1] chật hẹp, chưa được tiện lợi để bảo vệ bờ cõi, đầu năm Quý Tỵ (1833) vua Minh Mạng đã ban lệnh cho Tổng đốc An Hà là Lê Bá Cương và Tuần phủ An Giang là Ngô Bá Nhân (hay Nhơn) chọn địa điểm khác để xây dựng thành trì.



Sau khi lựa được đất Long Sơn (trước đây thuộc Tân Châu Bảo) là nơi ở về thượng du, địa thế cao ráo, qua lại tiếp ứng, thiệt là chỗ hình thế hiểm trở, bèn đem việc ấy tâu lên, được nhà vua chấp thuận[2]. Năm 1834, thành Châu Đốc bị triệt phá. Tuy nhiên chưa rõ lý do gì, nhà vua lại thay đổi quyết định, tức cho xây dựng lại ở nơi cũ, còn công trình ở Long Sơn thì bị bỏ dở dang (hào thành chỉ đào được một số đoạn và chưa xây một viên đá hay viên gạch nào).
Theo sách Địa chí An Giang thì năm 1875[3], trên một giồng đất của tòa thành bị bỏ dở dang, Hòa thượng Trí Trang (Trần Minh Lý, 1825 - 1899) đã dựng lên một ngôi chùa nhỏ bằng tre lá, và được gọi là chùa Giồng Thành [4].
Đến năm 1927, Hòa thượng Chánh Hườn (1879 - 1947)[5], là người xã Long sơn, nhận thấy cửa thiền ngày càng đông tín đồ mà chùa thì quá cũ kỹ và chật hẹp, nên đã xin với nhà cầm quyền Pháp, cho đi quyên góp để xây cất lại ngôi thờ Phật.


Chùa Linh Sơn ( An Giang ) 

Năm 1970, Hòa thượng Chơn Như (1925 - 1972)[6]. cho trùng tu lại chùa theo kiến trúc kiểu Ấn Độ. Và đây là lần trùng tu lớn nhất, và tồn tại cho đến ngày nay.
Chùa Giồng Thành được cất theo chữ "Song Hỷ", gồm có 3 gian: chánh điện, nhà giảng và hậu tổ. Chánh điện và nhà giảng có 3 nóc [7], nhà hậu tổ có 3 nóc. Chánh điện thờ Phật Thích-ca Mâu-ni, Nam Tào, Bắc Đẩu. Nhà giảng thờ Phật Mẫu và nhà hậu tổ thờ các hòa thượng trụ trì chùa. Chùa lợp ngói móc, cột chánh điện bằng gỗ căm xe có vẽ rồng. Mặt gió của chùa cất theo kiểu Ấn Độ, phía trước trên nóc chùa có tháp hai tầng hình phễu úp ngược, nên phải và bên trái nóc chùa có hai tháp.
Vào những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ 20, hội kín tên Thiên Địa hội (kèo xanh, kèo Vàng) của Phan Xích Long, đã chọn chùa Giồng Thành làm cơ sở để qui tụ người chống thực dân Pháp, bởi Hòa thượng Chánh Hườn là hội viên Hội kèo vàng [8].

 
 Một bên chùa

138. CHÙA LINH SƠN- An Giang

Chùa Linh Sơn (Ba Thê) còn được gọi là chùa Phật bốn tay núi Ba Thê, tọa lạc tại xã Vọng Thê (nay là thị trấn Óc Eo), huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, Việt Nam. Đây là một trong những địa điểm hành hương nổi tiếng của tỉnh. Chùa Linh Sơn được xây dựng vào năm 1913 (và được trùng tu mấy năm gần đây), cách chợ Vọng Thê khoảng 2 km về hướng đông. Ngôi chùa nằm trên nền một gò đất cao, bên những đại thụ râm mát, nơi triền núi Ba Thê, cạnh Khu di tích Nam Linh Sơn thuộc nền văn hóa Óc Eo.


Vào năm 1913, dân địa phương phát hiện một pho tượng Phật bốn tay ở tư thế đứng, cao 1,7 m, nằm sâu trong lòng đất khoảng hai mét, tại khu vực dân cư gần chợ Ba Thê. Trước đó, người dân cũng đã tìm thấy hai tấm bia được làm bằng đá bùn có chiều cao khoảng 1,80m, dày khoảng 0,22m, khắc chữ cổ mà nhiều nhà nghiên cứu nói có thể là chữ viết của dân tộc Phù Nam xưa. Đặc biệt, khi đặt tượng Phật vào giữa hai tấm bia này thì rất khít khao. Do sự linh ứng ấy, dân chúng quanh vùng góp công của xây dựng chùa Linh Sơn để thờ phụng và cũng từ đó, chùa có tên dân gian là chùa Phật Bốn Tay cho đến ngày nay. Vì vậy, dân quanh vùng khi ấy bèn góp công, góp của dựng lên một ngôi chùa đặt tên là Linh Sơn Tự để tôn thờ tượng Phật và gìn giữ bia cổ.
 


Từ thành phố Long Xuyên, theo tỉnh lộ 943, băng qua những cánh đồng lúa chín vàng mơ mênh mang tận chân trời, du khách đến thị trấn núi Sập, thủ phủ của huyện Thoại Sơn. Vượt dòng Thoại Giang đi thêm hơn 10 cây số nữa, ta sẽ tới thị trấn Óc Eo, nơi đây được các nhà khảo cổ xem như là “cái rốn”, trung tâm của nền văn minh, văn hóa Óc Eo.

Văn hoá Óc Eo là tên gọi chung của một nền văn minh gắn liền với vương quốc Phù Nam huyền thoại, có địa bàn trải rộng từ Tây đến Đông Nam bộ ngày nay. Trải qua trên dưới một ngàn năm trăm năm với bao biến động của thiên nhiên và lịch sử, nền văn hóa ấy đã bị mai một và dần rơi vào quên lãng. Ở thị trấn Óc Eo, có một ngôi chùa được người dân gọi bằng cái tên rất ấn tượng là chùa Phật Bốn Tay, tên chữ là “Linh Sơn cổ tự”.

Tam quan Linh Sơn cổ tự. 



Sân chùa Linh Sơn.


 Chánh điện chùa Linh Sơn ở Óc Eo thờ pho tượng Phật Bốn Tay. Pho tượng nầy có hình thể và nét mặt không giống như những tượng Phật thường gặp ở đa số các chùa chiền thuộc hệ phái Bắc tông. Tượng Phật Bốn Tay mặc y tiểu thừa, vẻ mặt và hình dạng ngài phốp pháp, sắc màu lam nhã, mắt mở lớn, ngồi kiết già và mỗi tay cầm một linh vật nhỏ. Tay phải trên cầm xâu chuỗi. Tay trái trên bắt ấn, tay phải dưới cầm chuông nhỏ, tay kia cầm trái châu. Đặc biệt ngài có đội chiếc nón như các vị Lạt Ma Tây Tạng. Nguyên tượng bằng đá đen, bán thân, về sau được gia cố thành tư thế ngồi.


Theo lời kể của sư trụ trì Thích Thiện Trí và lời truyền tụng trong dân gian thì vào năm 1913, khi người Pháp cho xe ủi đất làm đường và xây bót Ba Thê dưới chân núi, gần chợ, người ta phát hiện một pho tượng bằng đá đen có bốn tay, cao 1,7 mét, còn nguyên vẹn, nằm sâu dưới mặt đất khoảng 2 mét. Người Khmer quanh vùng tập họp thanh niên trai tráng khỏe mạnh khiêng tượng về núi để thờ, vì cho đó là tượng Neata Phrom tức thần Núi - theo tín ngưỡng thờ ông Tà của người Campuchia. Nhưng không hiểu vì sao tượng quá nặng, không sao di chuyển nổi. Sau nhờ những bô lão người Kinh đứng ra lập bàn thờ khấn vái. Thật lạ lùng, lúc ấy pho tượng mới được khiêng đi nhẹ nhàng.



Bàn thờ trong chánh điện chùa Linh Sơn.


Tượng Phật có 4 cánh tay.
 Trước đó, hai tấm bia đá bùn cũng đã được tìm thấy. Mỗi bia cao khoảng 1,8 mét, dày khoảng 20 cm, bề ngang khoảng 80 cm. Trên bia có khắc chi chít cổ tự, không ai đọc được. Đặc biệt, khi đặt tượng Phật vào giữa hai tấm bia này thì rất khít khao. Do sự linh ứng ấy, dân chúng quanh vùng góp công của xây dựng chùa Linh Sơn để thờ phụng và cũng từ đó, chùa có tên dân gian là chùa Phật Bốn Tay cho đến ngày nay.

Chùa Phật Bốn Tay có khuôn viên rộng khoảng 4.000 mét vuông. Chánh điện có kiến trúc đơn giản, diện tích chừng 100 mét vuông, quét vôi vàng, mái lợp ngói vảy cá, hai góc mái trước được đắp rồng uốn lượn. Nhưng pho tượng Phật bốn tay được coi là “báu vật” vô giá.



Cây dầu Bốn Ngón.



Hòa thượng Thích Thiện Trí trụ trì từ năm 1967 cho biết: chùa Linh Sơn do sư tổ Thiết Ma Nhiên Chánh khai sơn năm 1912, tượng Phật đem về chùa sau một năm (1913). Chùa được trùng tu năm 1983. Pho tượng Phật bốn tay là một di sản văn hóa Óc Eo, có cùng niên đại với tượng Bà Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc. Trong các chùa chiền Phật Giáo Việt Nam xưa nay không thấy có thờ tượng Phật bốn tay, chỉ có tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn có 18 tay. Theo các nhà nghiên cứu, thật ra, tượng Phật bốn tay chính là tượng thần Visnu có rắn thần Naga bảy đầu tạo thành tán che phía sau. Riêng hai bia đá có chữ khắc vẫn chưa được giải mã, đây là loại cổ tự có cùng gốc với chữ Brami của người Ấn Độ, được sử dụng từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ VI sau công nguyên.

Ở phía sau chùa Phật Bốn Tay, gần di chỉ Nam Linh Sơn (thành cổ Óc Eo) có một cây dầu mọc từ gốc lên bốn nhánh thân suông thẳng đều tỏa ra rất lạ, thon thả như những ngón tay! Dân địa phương gọi cây dầu nầy là cây Bốn Ngón. Cây Bốn Ngón thuộc họ khộp (dầu lông) cao chừng 50 mét, mình trơn. Có người còn cho đó là những ngón tay của Phật .
Về thành cổ Óc Eo, xem tượng Phật Bốn Tay, cây Bốn Ngón, du khách như ngược về quá khứ, đắm mình trong không gian một thời của vương quốc Phù Nam, nay chỉ còn là huyền thoại.


139. CHÙA HÒA THẠNH (An Giang)

Chùa thường gọi là chùa Cây Mít, tọa lạc ở xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, cách thị xã Long Xuyên 87km.Chùa Hòa Thạnh

Chùa thường gọi là chùa Cây Mít, tọa lạc ở xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, cách thị xã Long Xuyên 87km. Chùa được xây dựng vào khoảng thế kỷ XIX và được trùng tu mở rộng vào những năm 1921-1923. Hòa thượng trụ trì Diên Minh là hội viên thường trợ của Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học vào những năm 1930. Chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ có giá trị nghệ thuật. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.


  


140. CHÙA XVAY TON- An Giang

Chùa Xvay-ton (chùa Xà Tón) tọa lạc ở khóm 3, thị trấn Tri Tôn, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang là một trong những ngôi chùa của đồng bào dân tộc Khmer. Chùa được dựng sơ sài vào thế kỷ XVII. Đến năm 1896, chùa được xây dựng kiên cố cho đến nay.




Các vị cao niên người Kher và các vị sư sãi ở đây cho biết, chùa Xà Tón đã được xây dựng cách đây hơn 200 năm. Lúc đầu, chùa được dựng bằng gỗ, lợp lá, nền đất. Ngày xưa vùng Tri Tôn còn hoang vu, rậm rạp, dân cư rất thưa thớt. Trên những ngọn cây to cao nhiều cành, nhiều lá có từng đàn khỉ (Xvay) đu vào nhau, nối đuôi nhau mà chuyền đi (ton). Bà con Khmer dựng chùa thờ Phật ở đây và đặt tên chùa là Xvayton (biến âm thành Xà Tón cho dễ đọc).





Năm 1896 và 1933 chùa Xà Tón được xây dựng lại bằng gạch ngói, cột bằng gỗ câm-xe, nền chùa đắp cao 1,8 m đễợc xây bằng đá xanh. Giống như các chùa Khmer khác ở đồng bằng sông Cửu Long, chùa Xà Tón cũng theo cùng một quy cách bố cục và kiến trúc thống nhất. Chính điện chùa Xà Tón nằm ở trung tâm khu đất của chùa. Chính điện được xây theo hướng đông-tây có nóc nhọn và hai mái cong gợi hình ảnh nằm dài uốn cong của rắn thần Naga, rắn thần chỉ sự dũng mãnh.



141. TỔ ĐÌNH PHẬT GIÁO HÒA HẢO - Long Xuyên

 Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (tức 4 tháng 7 năm 1939), Huỳnh Phú sổ bắt đầu khai đạo, khi ông chưa tròn 20 tuổi. Nơi tổ chức lễ khai đạo chính là gia đình ông. Ông đã lấy tên ngôi làng Hòa Hảo nơi mình sinh ra để đặt tên cho tôn giáo mới của mình: đạo Hòa Hảo hay Phật giáo Hòa Hảo. Sau đó, ông được các tín đồ suy tôn làm giáo chủ mối đạo, và gọi ông bằng cái tên tôn kính là Huỳnh Giáo Chủ. Tổ đình Phật giáo Hòa Hảo, xưa thuộc làng Hòa Hảo; nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, Việt Nam. Đây là nơi khai sinh ra đạo Phật giáo Hòa Hảo vào năm 1939 do Huỳnh Phú Sổ (1920 - 1947?) sáng lập.

Kể từ đó, ông lần lượt làm nhiều bài thơ ca, sau được tập hợp lại thành quyển Sấm giảng thi văn giáo lý, có phần gần gũi với tư tưởng thần bí và tín ngưỡng dân gian ở Nam Bộ lúc bấy giờ.
Phật giáo Hòa JHảio bắt nguồn từ phái Bửu Sơn Kỳ Hương của Phật Thầy Tây An, kết hợp tam giáo nhưng Nho và Phật là trọng tâm, là tôn giáo của người cư sĩ, không cần đầu tròn, áo vuông, không cần chùa chiền to lớn, không thờ tượng ảnh. Bửu Sơn Kỳ Hương lấy trấn điều thay thế tượng Phật, sau Hòa Hảo lấy trần nâu  thay trần điều.


File:Tổ đình PGHH.jpg Trả lời kèm Trích dẫn




Nói đến Phật giáo Hòa Hảo, là nói đến Bửu Sơn Kỳ Hương là nói đến nmột chuổi chùa chiền thờ Phật, thờ Phật Thầy, quan Cố Quản Trần Văn Thành, , Bùi Tăng chủ,  Nguyễn Trung Trực...




Nơi giữ hóa thân của Đức PHẬT THẬY, "Trước khi viên tịch NGÀI dặn dò bổn đạo không được làm mồ mả nguy nga, không xây đấp nấm mồ, hãy trải phẳng mặt, để sau nầy hậu thế có thể dùng để canh tác.. thật cao quí thay quan đìểm hữu ích nhân loại chúng sanh của vị hoạt Phật"


Cổng lên ngôi mộ của Đức THẬT THẦY TÂY AN tại núi Sam, tỉnh Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang)


Cổng vào ngôi cổ mộ của BÙI TĂNG CHỦ, là một trong các vị Hiền thủ được Đức PHẬT THÂY giao nhiều trọng trách hoằng hóa nền Đạo


Ngôi cổ mộ và thờ tự Đức Cố Quản TRÂN VĂN THÀNH, một trong những vị đại đệ tử của Đức PHẬT THẦY, được thế gian truyền tụng là một trong 12 vị hiền thủ của đạo.


Ngôi PHƯỚC ĐIỀN TỰ là nơi Đức PHẬT THẦY đặc chân chửa trị bệnh dịch lần đầu cho dân chúng, sau đó Ngài cho thành lập "Trại Ruộng" nhằm khuyết khích dân chúng lo làm ăn - tu hiền, phát triển đời sống trong các miền quê hẻo lánh. Thụôc vùng Lánh Linh.

Cổng trước ngôi Cổ Tự giờ được trùng tu khá khang trang, sau nhiều chục năm dài hoang vắng.


Ngôi NAM THANH TỰ một trong những di tích sau khi Đức PHẬT THẦY viên tịch người tín đồ hệ phái Bửu Son Kỳ Hương lập nên những ngôi thờ tự để ghi nhớ công đức hoằng hóa độ sanh thuộc vùng Láng Linh.

Cổng trước đền thở Quan Thượng Đẳng Đại Thần NGUYỄN-TRUNG-TRỰC tọa lạc tại Rạch gía, Tỉnh Kiên Giang.

Ngôi chùa 'Tòng Sơn' tọa lạc tại Xẽo Môn, Long Kiến (Nay thuộc Đồng Tháp) Nơi Đức Phật Thầy trị bệnh độ đời. (nay cũng bị thay đổi hẳn hình dáng)

Ngôi Cổ Tự "Tòng Sơn" hiên nay đã bị thay đổi hầu như toàn diện, mất hẳn tính chất nguyên thủy.

Chính điện Ngôi Tòng Sơn





 

Cây Lâm dồ (Đa) có từ khi tín đồ tu sửa Ngôi Cổ từ lúc còn cây lá. - Dinh Ông tọa lạc tại Cù Lao Ông Chưởng, Chợ mới (AG)

Ngôi Chùa PGHH tọa lạc tại Định Quán do một tín đồ ( sống ở Canada) phát tâm tạo dựng vào năm 2007.

Ngôi "Tây An Cổ Tự" tại núi Sam, trước là Tỉnh Châu Đốc. Có lúc nhà đương cuộc buộc Đức Phât Thầy về ngu tại Ngôi cổ tự nầy.




Phước Điền Tự" thuộc dòng Bữu Sơn Kỳ Hương tọa lạc tại Thới Sơn (Nay là Tỉnh Angiang). Trước đây Đức Phật Thầy cho lập trại ruộng hầu giúp cho đồng bào có thêm phưong tiện trong đời sống.


File:Tổ đình PGHH.jpg Trả lời kèm Trích dẫn


142. CHÙA TRÊN NÚI CẤM  
- CHÙA PHẬT LỚN  -
 
Chùa Phật Lớn được xây dựng năm 1912, trên một khoảng đất rộng bên triền, gần đỉnh núi (ở độ cao 526 m so với mặt nước biển)[1]. Sở dĩ có tên như thế là vì trong chùa có thờ một tượng Phật cao 1,8 m. Vào thời điểm ấy, pho tượng này cao lớn hơn các tượng thờ khác ở trong vùng. Và gọi vậy, còn để phân biệt với chùa Phật Nhỏ ở hướng đông, cũng trên núi này.
Sau khi ông Bảy Do (Cao Văn Long), người đầu tiên xây dựng và tu ở chùa, bị thực dân Pháp bắt, chùa Phật Lớn trở nên hoang vắng. Mãi đến năm 1914, ông cựu hương quản làng An Khánh [2] đến núi Cấm thấy cảnh chùa hoang phế quá, bèn đến chùa Linh Sơn (Sài Gòn) nhờ Cò Mi Chấn (Phó Hội trưởng Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học) đứng ra xin phép để được tái thiết chùa.


Tập tin:Chùa Phật Lớn núi Cấm.jpg
 Toàn cảnh chùa Phật lớn

Tìm mọi cách mà nhà cầm quyền không chấp thuận, ông Chấn bảo ông Lầu làm liều cất đại một am lá để che mưa nắng cho tượng Phật. Có người mật báo với Chủ tỉnh Châu Đốc, ông Lầu bị tra vấn, còn Cò Mi Chấn thì nhận được công văn của tỉnh buộc phải tháo dỡ am. Nhưng Cò mi Chấn trả lời qua thư rằng: Theo tục lệ An Nam, không thể để Phật ngồi giữa trời dầm mưa, dãi nắng như thế... Chủ tỉnh lại gởi công văn lần nữa, lần này Cò mi Chấn đáp: Cái am lỡ cất rồi, tôi là người đạo Phật, sợ phạm tội nên không dám dỡ!... Nhờ sự đôi co ấy mà am không bị phá bỏ và tượng Phật được bảo 
 quản tốt cho đến nay

 .

Hiện nay (tháng 7 năm 2008), chùa Phật Lớn đang được tôn tạo lại trên nền cũ có mở rộng diện tích lên đến 13,6 ha gồm khu chánh điện, nhà chuông, khu nhà nghỉ, hệ thống điện, nước... để phục vụ cho việc thờ cúng và cho khách đến hành hương hay vãng cảnh.


Tượng Phật Di Lặc lớn nhất châu Á trên núi Cấm Cao gần 34 m, đặc tả rõ nụ cười an nhiên, từ bi, hỉ xả, tượng Phật Di Lặc màu trắng sáng trên đỉnh núi Cấm (An Giang) vừa được tổ chức Kỷ lục châu Á công nhận là tượng Phật lớn nhất châu Á.

phat2-132807-1371801239_500x0.jpg 

Tượng có chiều cao từ chân đến đỉnh là 33,6 m, diện tích bệ 27x27 m, khuôn viên tượng Phật rộng 2,2 ha. Bức tượng đặc tả rõ nét nụ cười an nhiên, từ bi, hỉ xả và bụng to đặc trưng của Phật Di Lặc. Chân đế bệ tượng làm bằng đá gắn kính phản xạ cao cấp màu xanh ve mang ý nghĩa một khối kim cương.

-CHÙA VẠN LINH

 Chùa Vạn Linh, thường được gọi là chùa Lá, tọa lạc ở ấp Vồ Đầu, xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Chùa nằm trên núi Cấm vùng Thất Sơn, nơi có bảy ngọn núi nổi tiếng là núi Két (Anh Vũ sơn), núi Giài Năm Giếng (Ngũ Hồ sơn), núi Tượng (Liên Hoa sơn), núi Nước (Thủy Đài sơn), núi Dài (Ngọa Long sơn), núi Tô (Phụng Hoàng sơn) và núi Cấm (Thiên Cẩm sơn).


Thượng tọa trụ trì Thích Hoằng Tri cho biết chùa nằm ở độ cao 550m, còn núi Cấm cao 716m, dài 7.500m. Chùa do Hòa thượng Thích Thiện Quang khai sơn năm 1927, bấy giờ chỉ là một am tranh. Hòa thượng khai sơn thuộc dòng Lâm Tế Gia Phổ đời 40, đệ tử của Hòa thượng Viện chủ tổ đình Phi Lai Thích Chí Thiền.

 

Do đức độ và tài trị bệnh của Hòa thượng khai sơn, Phật tử và bệnh nhân đến chùa mỗi ngày một đông, Ngài đã cho xây dựng ngôi chùa quy mô to lớn vào năm 1941. Ngài viên tịch vào ngày 26 tháng 11 năm Quý Tỵ (31-12-1953).

Chùa Vạn Linh (núi Cấm)


Ngôi chùa do chiến tranh đã bị hư hỏng từ những năm 1945-1946.
Đến năm 1976, ông Hai, pháp danh Thiện Thới, đệ tử của Hòa thượng Thiện Quang đã cho xây ngôi chùa nhỏ, được người dân địa phương gọi là chùa Lá.
Chùa Vạn Linh

Mặt tiền chùa

Chùa Vạn Linh - nhìn từ phía sau


143. CHÙA ÂNG- Trà Vinh

 Chùa Âng (tên KhmerAngkorajaborey) là một ngôi chùa cổ trong hệ thống chùa Khmer của tỉnh Trà Vinh; hiện tọa lạc bên quốc lộ 53, thuộc khóm 4, phường 8, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, Việt Nam. Chùa nằm cách trung tâm thành phố khoảng 5 km, nằm trong khuôn viên thắng cảnh Ao Bà Om, và đối diện với Bảo tàng Văn hóa dân tộc Khmer của tỉnh.



Đây là một trong những ngôi chùa tiêu biểu trong hệ thống 141 ngôi chùa Khmer ở Trà Vinh [1]. Theo Bảng Di tích lịch sử chùa Âng, thì chùa có từ năm 990... Đến năm 1695, ngôi chính điện được xây dựng lại bằng tre lá. Năm 1842, chùa được xây dựng lại bằng gỗ quý (rui, mè và 60 cây cột), lợp ngói và tường xây. Sau đó, chùa còn được trùng tu vài lần nữa [2].
Chùa nằm trong khuôn viên có diện tích khoảng 4 ha, có hào nước sâu bao bọc, và được xây dựng theo lối kiến trúc-trang trí chùa Khmer Nam Bộ.

Cổng chùa Âng

Cổng chùa được xây dựng với ba ngọn tháp ở trên, có đắp hình chằn. Hai bên trụ cổng là hình vũ nữ Kẽn naarr và tượng người đầu chim (Krũd).

Chính điện chùa Âng (chính diện)

Chánh điện quay về hướng Đông, tọa lạc nên một nền cao 2 m [3]. Mái của chính điện được cấu tạo gồm ba cấp, hai mái trên cùng thì dốc và cao hơn mái còn lại. Các gò mái có thần rắn Naga, đuôi cong vút, tượng trưng cho sự dũng mãnh vĩnh cửu.


Ở các đầu cột là những tượng vũ nữ Kẽn naarr và tượng người đầu chim (Krũd) với hai tay chống đỡ mái. Quanh chính điện có trụ cột, hàng rào với đầu thần Bayon bốn mặt. Ngoài ra ở đây còn có tượng chằn Yeak mặc áo giáp với khuôn mặt dữ dằn…[4].
Ngoài ra, trong khuôn viên chùa còn có các hạng mục công trình khác như: trai đường, giảng đường, các Tăng xá và các tháp chứa di cốt...



Các tượng Phật Thích Ca trong chính điện Như bao ngôi chùa thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông Khmer khác, bên trong chính điện chùa Âng cũng chỉ thờ duy nhất là Phật Thích Ca. Bệ thờ Phật rộng gần 30 gồm bốn bậc. Tượng Phật chính cao 2,1 m.
 

Xung quanh có khoảng 50 tượng Phật khác nhỏ hơn. Ba phía vách chính điện có các bức tranh vẽ kể lại cuộc đời đức Phật Thích Ca. Trần chính điện được trang trí bốn bức bích họa lớn theo chủ đề: Phật Thích Ca đản sinh, xuất gia, đắc đạo và nhập niết bàn.



 Một trong số bức tranh tường vẽ về cuộc đời Phật Thích Ca trong chính điện

Và cũng như nhiều ngôi chùa Khmer khác, chùa Angkorajaborey không chỉ là nơi tu hành của các vị sư, là nơi thanh niên Khmer đến tu học, mà còn là một trung tâm văn hóa. Hàng năm, lễ hội Ok Om Bok (rằm tháng 10 âm lịch) là lễ hội lớn nhất của chùa.


144. SẮC TỨ QUAN ÂM CỔ TỰ - Cà Mâu

Chùa tọa lạc ở số 84/14 đường Rạch Chùa, phường 4, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. ĐT: 0780.831370. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa do Hòa thượng Tô Quang Xuân dựng vào giữa thế kỷ XIX, bấy giờ chỉ là một am nhỏ để ngài tu hành và chữa bệnh cho dân. Sau ngài về tu ở chùa Kim Chương (Gia Định) lấy pháp hiệu là Thượng Trí hạ Tâm. Vua Thiệu Trị đã sắc phong Hòa thượng cho ngài năm 1842 và sắc tứ chùa Quan Âm.
Kiến trúc chùa hiện nay được các Hòa thượng Thích Thiện Tường và Thích Thiện Đức xây dựng năm 1936.

Năm 1842 năm Thiệu Trị thứ II, Hiến Tổ Chương Hoàng Đế, triều Nguyễn đã xuống chiếu sắc phong cho ngôi chùa của ông sáng lập với tên gọi là "Sắc Tứ Quan Âm Cổ Tự". Hiện nay nhiều hiện vật như tượng, hoành phi, câu đối và nhiều đồ thờ phụng khác như những di vật văn hóa Phật giáo của thời kỳ khẩn hoang. Đó là những hiện vật có giá trị về mặt lịch sử và mỹ thuật độc đáo còn được gìn giữ đến ngày nay.


Quan Âm Cổ Tự - Ngôi chùa huyền thoại Cà Mau

  Tưởng cũng nên nhắc lại Chiếu vua ban thuở nào :
Chiếu rằng :
Trẫm nghĩ chốn kỳ duyên mậu thạnh trăm hoa đua nở đầy cành, cảnh sắc ta bà.
Hương thủy bao trùm hoa tạng muôn xưa không diệt không sanh,
Bờ bỉ vơi vơi từng nghe nương một cành lau mà đến trời Tây vời vợi sang qua nhờ chiếc thuyền Từ đã trưng việc cổ để nghiệm đời nay,
Vừa đọc tố chương bỡ ngỡ ve vang trước mắt,.
Duyệt xem văn sớ từng ngày đã cỡi hạc quy tiên.
Người linh địa cảnh nên linh, vương pháp tâm đồng Phật pháp.
Triều đình không có chi hơn kính phong hòa thượng và ân ban gấm vóc,


http://www.thesaigontimes.vn/Uploads/Articles04/88528/841b6_anh_3.jpg




Lễ kỳ siêu cho người quan thân nơi cảnh lạc ban.
Giờ đây người đã viên tịch nơi chùa danh thắng Kim Chương.
Hỡi ơi !
Tiên cảnh không trần thiên đường có nẻo,
Vinh hạnh thay ! Kính tỏ tấm lòng.
Hoàng thượng ân ban một đạo và gấm vóc đôi cây gọi là ân huệ triều đình làm sáng tỏ công đức của ngài.
Khả kính thay !
Hoàng triệu Thiệu Trị đệ nhị niên
Nhâm Dần niên 1842 Tháng 6 mùng 3.


Quan Âm Cổ Tự - Ngôi chùa huyền thoại Cà Mau

Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Chính giữa tôn trí tượng Di Đà Tam Tôn (đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí). Bàn phía trước đặt tượng Thất Phật Dược Sư, Bồ tát Chuẩn Đề, Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát Địa Tạng và Bồ tát Di Lặc. Nhà Tổ thờ tượng Tổ sư Đạt Ma, Bồ tát Quán Thế Âm, Bồ tát Địa Tạng và long vị chư Tổ. Tiền đường đặt thờ tượng Hộ Pháp và Tiêu Diện.



Trong khuôn viên chùa có tháp mộ của Hòa thượng Thích Trí Tâm, một danh tăng ở miền Nam, với nhiều truyền thuyết về ngài, biết trước những việc sắp xảy ra và chữa lành những bệnh nan y cho nhiều người và thú vật.







No comments:

Post a Comment